Bản án về tranh chấp hụi số 24/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HƯNG – TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 24/2023/DS-ST NGÀY 25/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 25 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 21/2023/TLST- DS ngày 07 tháng 02 năm 2023 về tranh chấp “Hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thúy N, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Ấp C, xã V, huyện T, tỉnh Long An.

2. Bị đơn:

- Ông Phạm Thanh H (tên gọi khác: T), sinh năm: 1987.

- Bà Nguyễn Thị Thúy D, sinh năm: 1987.

Cùng địa chỉ: Ấp C, xã V, huyện T, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp của bà D: Ông Phạm Thanh H, sinh năm: 1987; Địa chỉ: Ấp C, xã V, huyện T, tỉnh Long An. Là người đại diện theo ủy quyền (giấy ủy quyền ngày 09/3/2023).

3. Người làm chứng: Bà Lê Thị Diệu H, sinh năm: 1994; Địa chỉ: Ấp C, xã V, huyện T, tỉnh Long An.

(Bà N có mặt; bà H xin vắng mặt; ông H, bà D vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong các đơn khởi kiện ngày 30/01/2023, ngày 31/3/2023 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị Thúy N trình bày:

Ngày 24/11/2020, ông Phạm Thanh H (T) và bà Nguyễn Thị Thúy D có tham gia chơi 01 phần hụi 2.000.000 đồng do bà làm đầu thảo (trong giấy hụi ghi tên D T số thứ tự 13), 02 tháng mở hụi một lần, hụi có 11 người tham gia và có 17 phần. Đến lần mở hụi thứ 5 thì bà D, ông H lĩnh hụi, bà đã giao cho bà D số tiền 20.820.000 đồng, bà D ký tên lĩnh hụi và ghi số lần đóng hụi lại là 12 lần. Ông H, bà D góp hụi được 08 lần, tính đến ngày 31/3/2023 thì ông H, bà D còn nợ 02 lần góp hụi với số tiền 4.000.000 đồng.

Ngày 17/01/2021, ông Phạm Thanh H và bà Nguyễn Thị Thúy D có tham gia chơi 01 phần hụi 5.000.000 đồng do bà làm đầu thảo (trong giấy hụi ghi tên D T, số thứ tự 14), 03 tháng mở hụi một lần, hụi có 08 người tham gia và có 16 phần. Đến lần mở hụi thứ 6 thì bà D, ông H lĩnh hụi, bà đã giao cho ông H số tiền 49.600.000 đồng, ông T ký tên lĩnh hụi. Như vậy, ông H, bà D phải góp lại 09 lần hụi nhưng ông H và bà D không góp hụi lại theo đúng thỏa thuận, tính đến ngày 31/3/2023 thì ông H, bà D còn nợ 03 lần góp hụi với số tiền 15.000.000 đồng.

Ngày 15/10/2021, ông Phạm Thanh H và bà Nguyễn Thị Thúy D có tham gia chơi 01 phần hụi 1.000.000 đồng do bà làm đầu thảo (trong giấy hụi ghi tên D T, số thứ tự 16), 01 tháng mở hụi một lần, hụi có 13 người tham gia và có 22 phần. Đến lần mở hụi thứ 2 thì bà D, ông H lĩnh hụi, bà đã giao cho bà D số tiền 13.900.000 đồng, bà D ký tên lĩnh hụi và ghi số lần đóng hụi lại là 20 lần. Ông H, bà D góp hụi được 12 lần, tính đến ngày 31/3/2023 thì ông H, bà D còn nợ 04 lần góp hụi với số tiền 4.000.000 đồng.

Ông H, bà D nhiều lần góp hụi trễ hoặc góp không đủ tiền, bà phải cho ông H và bà D mượn tiền để góp hụi, bà D có ký biên nhận mượn tiền với bà vào ngày 06/11/2022 (nhằm ngày 13/10/2022 âm lịch).

Tổng số tiền hụi ông H, bà D phải góp lại cho bà là 23.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông H, bà D phải liên đới trả cho bà số tiền 23.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

Bị đơn ông Phạm Thanh H (T) và ông H đại diện cho bà Nguyễn Thị Thúy D trình bày:

Ông H thừa nhận ông và bà D có tham gia 03 phần hụi do bà N làm đầu thảo, cụ thể: hụi 2.000.000 đồng (trong giấy hụi ghi tên D T, số thứ tự 13), 02 tháng mở hụi một lần, hụi có 11 người tham gia và có 17 phần, lần mở hụi thứ 05 vợ chồng ông lĩnh hụi số tiền 20.820.000 đồng; hụi 5.000.000 đồng (trong giấy hụi ghi tên D T, số thứ tự 14), 03 tháng mở hụi một lần, hụi có 08 người tham gia và có 16 phần, lần mở hụi thứ 06 vợ chồng ông lĩnh hụi số tiền 49.600.000 đồng; hụi 1.000.000 đồng (trong giấy hụi ghi tên D T, số thứ tự 16), 01 tháng mở hụi một lần, hụi có 13 người tham gia và có 22 phần, lần mở hụi thứ 02 vợ chồng ông lĩnh hụi số tiền 13.900.000 đồng Vợ chồng ông đã góp hụi lại đầy đủ cho bà N khi đến hạn, đôi khi vợ chồng ông có góp hụi trễ vài ngày, việc ông và bà D góp hụi lại cho bà N không có giấy tờ gì, khi đến lần góp hụi thì bà N lại nhà vợ chồng ông, bà nhận tiền. Nay vợ chồng ông không đồng ý trả tiền cho bà N, vì vợ chồng ông đã góp hụi đầy đủ cho bà N khi đến hạn.

Người làm chứng bà Lê Thị Diệu H trình bày: bà có tham gia các phần hụi chung với ông H, bà D do bà N làm đầu thảo. Ngày 26/3/2023, bà lĩnh phần hụi 5.000.000 đồng, bà biết ông H và bà D trốn tránh bà N để không đóng hụi, hiên nay ông H và bà D còn nợ tiền của bà và cũng đang trốn tránh bà.

Tòa án đã tiến hành mở phiên hòa giải giữa các đương sự nhưng không hòa giải được do ông H (T) vắng mặt.

Các bên đương sự xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Tòa án, không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán là đúng theo quy định; Hội đồng xét xử đều đúng quy định của pháp luật; nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

Bà N yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông H, bà D phải trả cho bà số tiền nợ hụi 23.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất là có cơ sở chấp nhận vì: ông H, bà D có tham gia 03 dây hụi do bà N làm đầu thảo, dây 1 khui vào ngày 24/11/2020 hụi 2.000.000 đồng, dây 2 khui ngày 17/01/2021 hụi 5.000.000 đồng, dây 3 khui ngày 15/10/2021 hụi 1.000.000 đồng. Ông H, bà D đã lĩnh hết 03 dây hụi và nhận tiền ký tên, ông H và bà D có góp hụi lại nhưng đến tháng 10/2022 ông H, bà D không góp hụi lại cho bà N, việc ông H và bà D không đóng hụi cho bà N có bà H làm chứng vì bà H có tham gia dây hụi 5.000.000 đồng có ông H, bà D tham gia. Hơn nữa, ông H thừa nhận có tham gia 03 dây hụi do bà N làm đầu thảo, ông H đã lĩnh hết 03 đầu hụi và góp lại đầy đủ, ông H có đóng trễ nhưng không phải không đóng lại hụi chết cho bà N nhưng ông H không có gì chứng minh, khi ông H đóng đủ tiền cho bà N thì ông H không yêu cầu bà N ghi giấy đã đóng xong hụi. Do đó, yêu cầu của bà N có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 13, Điều 18 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường và Điều 471 Bộ luật dân sự 2015.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng thụ lý và giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông H, bà D được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến, Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được theo khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự và đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Sau khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho ông H, bà D nhưng ông H và bà D vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Bà N yêu cầu ông H, bà D phải liên đới trả số tiền hụi là 23.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

Ông H, bà D không thừa nhận nợ tiền hụi bà N và không đồng ý trả.

[3] Hội đồng xét xử nhận định:

[3.1] Ngày 30/01/2023, bà N khởi kiện yêu cầu ông H, bà D trả số tiền hụi chưa góp là 13.000.000 đồng, đến ngày 31/3/2023 bà N tiếp tục khởi kiện bổ sung do ông H và bà D tiếp tục nợ hụi. Ông H, bà D cho rằng đã tiếp tục góp hụi cho bà N đầy đủ là không có căn cứ vì: Ngày 09/3/2023, Tòa án đã tống đạt cho ông H, bà D biết việc bà N khởi kiện và yêu cầu ông cung cấp giấy góp hụi để chứng minh việc ông H đã góp hụi đủ cho bà N nhưng ông H không cung cấp được, nếu các lần mở hụi tiếp theo mà ông H, bà D góp hụi cho bà N thì ông H và bà D đã yêu cầu bà N viết biên nhận nhận tiền góp hụi đúng theo quy định. Như vậy, lời trình bày của ông H và bà D là không đúng sự thật.

[3.2] Theo biên nhận ngày 06/11/2022 (nhằm ngày 13/10/2022 âm lịch), thể hiện ông H, bà D nợ tiền hụi của bà N không đóng nên bà N cho ông H và bà D mượn số tiền 4.000.000 đồng để góp hụi. Như vậy, ông H và bà D đã nợ hụi bà N từ tháng 11/2022.

[3.3] Theo xác nhận của Trưởng ấp C, xã V, huyện T thì ông H đã không có mặt ở địa phương từ tháng 01/2023 cho đến nay. Đồng thời, bà H cũng xác nhận ông H và bà D cố tình trốn tránh bà N để không góp hụi lại cho bà N. Do đó, bà N cho rằng ông H, bà D chưa góp hụi cho bà N đầy đủ là có căn cứ.

[3.4] Ông H, bà D thừa nhận có tham gia góp hụi do bà N làm đầu thảo và đã lĩnh hụi, việc lĩnh hụi có biên nhận và ký tên của ông H và bà D. Đồng thời, ông H và bà D vắng mặt không có lý do trong quá trình Tòa án tiến hành điều tra thu thập chứng cứ, hòa giải và tại phiên toà hôm nay mặc dù đã được Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ, ông H và bà D đã tự từ bỏ quyền tranh tụng tại toà để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy: ông H, bà D còn nợ tiền hụi bà N là có thật. Nay bà N yêu cầu ông H, bà D phải liên đới trả số tiền 23.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015 và Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường.

[3.5] Đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hưng là có căn cứ chấp nhận.

[3.6] Về án phí: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Do yêu cầu của bà N được chấp nhận nên ông H, bà D phải liên đới chịu 5% tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải trả cho bà N.

Bà N không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm; Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho bà N.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 235 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 471, 357, 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 17, 27, 37 L uật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thúy N đối với ông Phạm Thanh H, bà Nguyễn Thị Thúy D về việc tranh chấp “Hụi”.

Ông Phạm Thanh H, bà Nguyễn Thị Thúy D phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Lê Thị Thúy N số tiền 23.000.000 đồng (hai mươi ba triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

Ông Phạm Thanh H, bà Nguyễn Thị Thúy D phải liên đới chịu 1.150.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Lê Thị Thúy N không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho bà N 625.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo các biên lai thu số 0003486 ngày 07/02/2023, số 0000416 ngày 31/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi số 24/2023/DS-ST

Số hiệu:24/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hưng - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về