Bản án về tranh chấp hụi số 11/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 11/2022/DS-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 125/2021/TLST-DS ngày 20/12/2021 về “Tranh chấp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST-DS ngày 07/4/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T sinh năm 1966. Địa chỉ: Khu phố B, thị trấn H, huyện V, tỉnh Long An. (Có mặt)

- Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Công Đ, sinh năm 1962; (Vắng mặt)

2. Bà Phạm Thị Kim D, sinh năm 1965. (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp G, xã T, huyện V, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/12/2021 và những lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà có tham gia 01 phần hụi do vợ chồng bà Phạm Thị Kim D, ông Nguyễn Công Đ làm chủ thảo, dây hụi 5.000.000 đồng, 3 tháng khui 01 lần, gồm 13 phần, bắt đầu khui ngày 10/3/2019 âm lịch (al), bà đã đóng được 06 kỳ hụi với số tiền 17.950.000 đồng, cụ thể như sau:

+ Kỳ 1, ngày 10/3/2019 (al) đóng 3.150.000 đồng.

+ Kỳ 2, ngày 10/6/2019 (al) đóng 2.900.000 đồng.

+ Kỳ 3, ngày 10/9/2019 (al) đóng 2.900.000 đồng.

+ Kỳ 4, ngày 10/12/2019 (al) đóng 3.250.000 đồng.

+ Kỳ 5, ngày 10/3/2020 (al) đóng 2.850.000 đồng.

+ Kỳ 6, ngày 10/6/2020 (al) đóng 2.900.000 đồng.

Sau đó bà D, ông Đ ngưng hụi nhưng không chịu trả tiền cho bà, bà khởi kiện yêu cầu bà D, ông Đ liên đới trả số tiền 30.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị T thay đổi 01 phần yêu cầu khởi kiện là chỉ yêu cầu bà D và ông Đ liên đới trả số tiền 17.950.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất 0,83%/tháng, kể từ ngày 10/6/2020 (al) tức ngày 30/7/2020 dương lịch (dl) đến nay là 21 tháng 11 ngày với số tiền 3.184.000 đồng.

Bị đơn bà Phạm Thị Kim D trình bày tại bản tự khai, các biên bản hòa giải, biên bản lấy lời khai:

Bà thống nhất phần trình bày của bà Nguyễn Thị T, năm 2019 vợ chồng bà có mở dây hụi 5.000.000 đồng, 3 tháng khui 01 lần, gồm 13 phần, bắt đầu khui ngày 10/3/2019 âm lịch (al), bà T tham gia 01 phần và đã đóng được 06 kỳ hụi với số tiền 17.950.000 đồng.

Trước yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T, bà đồng ý trả số tiền 17.950.000 đồng và tiền lãi nhưng xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ.

Bị đơn ông Nguyễn Công Đ không thể hiện ý kiến. Ý kiến của Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn: Tất cả đều tuân theo pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn ông Nguyễn Công Đ chưa thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng.

Về việc giải quyết vụ án:

Giữa bà Nguyễn Thị T và bà Phạm Thị Kim D đều trình bày thống nhất với nhau về thời gian mở hụi, khui hụi; thời gian ngưng khui hụi; số tiền khui hụi, số lượng thành viên tham gia dây hụi, bà T có tham gia 01 phần; số tiền bà T đã đóng 06 lần hụi sống và hiện bà D còn thiếu bà T số tiền 17.950.000 đồng nên xét thấy đây là sự việc không cần phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về yêu cầu ông Nguyễn Công Đ có nghĩa vụ liên đới trả nợ hụi. Mặt dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Đ vắng mặt không lý do trong những lần Tòa án triệu tập đến Tòa và ông Đ cũng không thể hiện ý kiến hay cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án nên căn cứ theo lời trình bày của bà D thì bà D cho rằng bà làm thảo hụi ông Đ có biết, giữa bà và ông Đ là vợ chồng có đăng ký kết hôn, số tiền bà thu được từ việc làm thảo hụi bà đem về phục vụ cho sinh hoạt gia đình nên căn cứ Điều 27, 37 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử buộc ông Nguyễn Công Đ liên đới cùng bà Phạm Thị Kim D trả nợ hụi cho bà Nguyễn Thị T.

Về lãi suất: Bà T chỉ yêu cầu lãi chậm trả với mức 0,83%/tháng, tính từ ngày 10/6/2020 âm lịch (tức ngày 30/7/2020 dương lịch) đến nay nên căn cứ Điều 468 Bộ luật Dân sự xét thấy mức lãi suất bà Tâm yêu cầu phù hợp với quy định pháp luật.

Về ý kiến bà D trình bày bà đã trả được 7.000.000 đồng cho bà T ngay khi ngừng khui hui. Tuy nhiên, bà D không cung cấp được chứng cứ chứng minh đã trả 7.000.000 đồng và bà T cũng không thừa nhận có nhận tiền do bà D đã trả nên xét thấy lời trình bày của bà D không có cơ sở.

Ngoài ra, bà D cũng có ý kiến xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng nhưng bà T không đồng ý và pháp luật không quy định nên đề nghị không chấp nhận ý kiến bà D.

Từ những phân tích nêu trên, căn cứ Khoản 3, Điều 26; Điểm a, Khoản Điều 35; Điểm a, Khoản 1, Điều 39; Điều 92, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 357, 468, 471 Bộ luật dân sự 2015; Điều 27, 37 Luật Hôn nhân gia đình; Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính Phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là tranh chấp hụi, bị đơn bà Phạm Thị Kim D, ông Nguyễn Công Đ có nơi cư trú tại ấp G, xã T, huyện V, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc vắng mặt của đương sự: Ông Nguyễn Công Đ và bà Phạm Thị Kim D được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ, bà D.

[3] Về nội dung khởi kiện:

[3.1] Giữa bà Nguyễn Thị T và bà Phạm Thị Kim D thống nhất việc bà T có tham gia 01 dây hụi 5.000.000 đồng do vợ chồng bà D, ông Đ làm chủ thảo, bà T đã đóng 06 kỳ hụi với số tiền 17.950.000 đồng sau đó ngưng hụi và vợ chồng bà D chưa trả 17.950.000 đồng, đây là sự việc được các bên đương sự thừa nhận không cần phải chứng minh.

[3.2] Bà Nguyễn Thị T yêu cầu vợ chồng bà D liên đới trả số tiền trên và bà D đồng ý, ông Đ không đến Tòa án để trình bày ý kiến mặc dù được triệu tập nhiều lần, xét thấy việc mở dây hụi, đóng nhiều kỳ, xảy ra tại nhà bà D và ông Đ, ông cũng không phản đối việc này, ông Đ và bà D là vợ chồng và việc mở hụi là hụi có tiền hoa hồng và bà D sử dụng số tiền làm chủ thảo để làm ăn và sinh hoạt trong gia đình nên ông Đ phải có nghĩa vụ liên đới với bà D trả số tiền 17.950.000 đồng cho bà T là phù hợp với Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình. Cho nên yêu cầu khởi kiện của bà T có căn cứ, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát.

[3.3] Về tiền lãi: Do hụi đã ngưng, bà D và ông Đ chậm trả tiền hụi cho bà T nên phải chịu lãi với mức lãi suất 0,83%/tháng từ ngày 30/7/2020 đến nay là phù hợp. Cách tính cụ thể: 17.950.000 đồng x 0,83% x 21 tháng 11 ngày (30/7/2020-11/5/2022) = 3.184.000 đồng.

[3.4] Ngoài ra, bà D còn trình bày có trả cho bà T 7.000.000 đồng nhưng không đưa ra chứng cứ chứng minh và bà T không thừa nhận nên không có căn cứ. Nên bà Phạm Thị Kim D và ông Nguyễn Công Đ có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị T tổng số tiền 21.134.000 đồng. Đối với yêu cầu xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng của bà D không được bà T chấp nhận và pháp luật không quy định việc trả dần nên không được chấp nhận.

[4] Về án phí: Bà Phạm Thị Kim D và ông Nguyễn Công Đ phải chịu án phí tính trên số tiền phải trả cho bà Nguyễn Thị T (21.134.000 đồng x 5% = 1.057.000 đồng) . Bà Nguyễn Thị T được chấp nhận yêu cầu nên được hoàn lại tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 471, Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự; Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường; Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T về việc tranh chấp hụi với ông Nguyễn Công Đ, bà Phạm Thị Kim D.

Buộc ông Nguyễn Công Đ, bà Phạm Thị Kim D có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền 17.950.000 đồng tiền hụi và 3.184.000 đồng tiền lãi.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí:

Ông Nguyễn Công Đ và bà Phạm Thị Kim D phải nộp 1.057.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

Hoàn lại cho bà Nguyễn Thị T 750.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng ngày 20/12/2021 theo biên lai thu số 0003569.

Báo cho nguyên đơn được biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi số 11/2022/DS-ST

Số hiệu:11/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về