Bản án về tranh chấp hụi số 101/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 101/2022/DS-ST NGÀY 05/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 05 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 149/2022/TLST-DS ngày 25 tháng 5 năm 2022 về tranh chấp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2022/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Võ Thị L, sinh năm 1956;

Địa chỉ: ấp Hưng B B (ấp 1B), xã Thạnh Phú Đ, huyện Giồng T, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: bà Trần Thị T, sinh năm 1976;

Địa chỉ: ấp Hưng A B (ấp 2B), xã Thạnh Phú Đ, huyện Giồng T, tỉnh Bến Tại phiên tòa, bà L có mặt, bà T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản lấy lời khai của đương sự, nguyên đơn là bà Võ Thị L trình bày:

Trong các năm 2013, 2014, 2015, bà có tham gia chơi hụi do bà Trần Thị T làm chủ hụi, hụi tháng, các phần hụi bà tham gia thì bà chưa hốt hụi, tên bà trong các dây hụi là “4 L”. Cách nay khoảng 05 năm, bà T tuyên bố vỡ hụi, bà T tự tính và tổng kết lại còn nợ bà số tiền hụi là 92.500.000 đồng (chín mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng). Ngày 06/5/2018, bà T trả cho bà 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và còn nợ lại số tiền hụi là 91.500.000 đồng (chín mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng). Bà T có viết giấy cho bà với nội dung “tổng cộng 92.500.000 đồng, gởi 6/5: 1.000.000”.

Bà yêu cầu bà T trả cho bà số tiền 91.500.000 đồng (chín mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng), bà không yêu cầu bà T trả lãi đối với số tiền này. Trước đây, bà T nhiều lần hứa trả cho bà nên bà không khởi kiện nhưng đến nay bà T vẫn không trả nên bà mới khởi kiện.

Các dây hụi bà tham gia cụ thể như sau:

- Dây hụi 3.000.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 30/5/2015 âm lịch, gồm 21 phần, bà tham gia 03 phần, gồm 02 phần đề tên bà, 01 phần bà T nói bà chia lại của người khác nhưng bà không nhớ tên người này là gì. Trong danh sách hụi viên bà T viết cho bà đối với dây hụi này chỉ có 02 phần hụi đề tên bà, 01 phần hụi nữa bà không biết tên là gì.

Bà góp được 12 phần hụi sống, mỗi phần bà góp hụi là 21.370.000 đồng nên 03 phần hụi bà tham gia thì bà đã góp được 21.370.000 đồng x 3 = 64.110.000 đồng (sáu mươi bốn triệu một trăm mười nghìn đồng).

- Dây hụi 2.000.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 30/01/2014 âm lịch, do bà T nói với bà là dây hụi này gồm 20 phần nên bà trình bày trong đơn khởi kiện là 20 phần. Tuy nhiên theo danh sách hụi viên bà T cung cấp cho bà có 17 phần nên bà xin trình bày lại là dây hụi này gồm 17 phần, bà tham gia 01 phần, bà góp được 12 phần hụi sống với số tiền là 15.390.000 đồng (mười lăm triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng).

- Dây hụi 500.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 05/02/2013 âm lịch, gồm 28 phần, bà tham gia 01 phần, bà góp được 26 phần hụi sống với số tiền là 13.000.000 đồng. Do dây hụi gần kết thúc nên bà T tính cho bà chẳn số tiền là 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng). Hiện bà không có giữ giấy tờ liên quan đến dây hụi này.

Việc bà tham gia chơi hụi bà không có ghi chép để theo dõi, mọi việc do bà T nói và tự tính cho bà. Các danh sách hụi viên là do bà T phô tô lại rồi đưa cho bà giữ.

Tại phiên tòa, bà L trình bày do bà tin tưởng bà T và là người ít hiểu biết nên bà T tính tiền hụi cho bà như thế nào bà cũng thống nhất. Do bà T nhiều lần hứa trả tiền hụi cho bà nên bà chờ, đến khi thấy người khác khởi kiện bà T thì bà mới khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án:

thực hiện đúng và tuân theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn bà L đã tuân thủ và thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Bị đơn bà T không có mặt theo Giấy triệu tập của Toà án, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, cũng không tham gia phiên tòa. Như vậy, bà T không tuân thủ và không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các khoản 15, 16 Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Vi phạm của bà T ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nhưng không lớn nên không đề nghị xử lý.

Về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 471 Bộ luật Dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị L.

Buộc bà Trần Thị T trả cho bà Võ Thị L số tiền nợ hụi là 91.500.000 đồng (chín mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng:

Bà Võ Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm giải quyết buộc bà Trần Thị T thực hiện nghĩa vụ trả tiền hụi cho bà L. Bà T là bị đơn trong vụ án cư trú tại xã Thạnh Phú Đ, huyện Giồng T, tỉnh Bến Tre. Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Bà Trần Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Vì vậy, căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà T.

[2] Về nội dung:

Bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T có nghĩa vụ trả cho bà số tiền nợ hụi là 91.500.000 đồng (chín mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng), không yêu cầu trả lãi. Căn cứ bà L khởi kiện là bản sao chụp các giấy viết tay ghi danh sách hụi viên và 01 giấy viết tay có nội dung: “tổng cộng 92.500.000 đồng, gởi 6/5:

1.000.000”.

Với yêu cầu và căn cứ khởi kiện của bà L, bà T không có ý kiến phản đối và không cung cấp các tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết.

Căn cứ vào các biên bản xác minh của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đối với bà Trần Thị H, bà Trần Thị A, bà Lê Thị Út E, bà Trần Thị H, bà Phạm Thị Thanh T, xét thấy từ năm 2013 bà L có tham gia chơi hụi do bà T làm chủ hụi, các dây hụi như sau: dây hụi 500.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 05/02/2013 âm lịch; dây hụi 2.000.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 30/01/2014 âm lịch; dây hụi 3.000.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 30/5/2015 âm lịch.

Theo bà L trình bày dây hụi 3.000.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 30/5/2015 âm lịch, gồm 21 phần, bà tham gia 03 phần. Đối với mỗi phần hụi, bà góp được 12 lần hụi sống cho bà T với số tiền là 21.370.000 đồng nên 03 phần hụi bà tham gia thì bà đã góp hụi cho bà T với số tiền là 21.370.000 đồng x 3 = 64.110.000 đồng (sáu mươi bốn triệu một trăm mười nghìn đồng); dây hụi 2.000.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 30/01/2014 âm lịch, bà tham gia 01 phần, bà góp được 12 lần hụi sống cho bà T với số tiền là 15.390.000 đồng (mười lăm triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng); dây hụi 500.000 đồng, ngày mở hụi đầu tiên là 05/02/2013 âm lịch, gồm 28 phần, bà tham gia 01 phần, bà góp được 26 lần hụi sống với số tiền là 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng), do dây hụi gần kết thúc nên bà T tính cho bà chẳn số tiền là 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng). Bà T tuyên bố vỡ hụi và còn nợ bà tổng cộng số tiền hụi là 92.500.000 đồng (chín mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng). Ngày 06/5/2018, bà T trả cho bà 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và còn nợ lại số tiền hụi là 91.500.000 đồng (chín mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng). Lời trình bày của bà L phù hợp với giấy viết tay có nội dung “tổng cộng 92.500.000 đồng, gởi 6/5: 1.000.000”. Bà L cho rằng giấy này là do bà T viết cho bà, đối với bà T thì không có ý kiến phản đối.

Như vậy, bà T là chủ hụi và còn nợ bà L là hụi viên số tiền hụi là 91.500.000 đồng (chín mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng) nên bà L khởi kiện yêu cầu bà T trả cho bà số tiền nợ hụi này là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự, Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường.

[3] Về tiền lãi: do bà L không yêu cầu bà T có nghĩa vụ trả tiền lãi đối với số tiền này nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bà T phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: 5% của số tiền 91.500.000 đồng (chín mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng) là 4.575.000 đồng (bốn triệu năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Bà L không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 471 Bộ luật Dân sự; Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Võ Thị L.

Buộc bà Trần Thị T phải có nghĩa vụ trả cho bà Võ Thị L số tiền hụi là 91.500.000 đồng (chín mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng). Ghi nhận việc bà Võ Thị L không yêu cầu bà Trần Thị T trả lãi đối với số tiền này.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bà Trần Thị T phải chịu án phí 4.575.000 đồng (bốn triệu năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi số 101/2022/DS-ST

Số hiệu:101/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:05/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về