TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 68/2022/DS-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
Ngày 05 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 33/2022/TLST-DS ngày 24/02/2022 về tranh chấp hợp đồng xây dựng (yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng) theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72A/2022/QĐXXST-DS ngày 23/6/2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV Tiên T Địa chỉ: Khu 5, thị trấn A, huyện Sơn Động, Bắc Giang. Do ông Trần Văn C – Giám đốc Công ty đại diện (có mặt).
2. Bị đơn: Ủy ban nhân dân xã H, huyện Hiệp Hòa, do ông Phạm Duy T - Chủ tịch UBND xã đại diện theo luật (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 10/11/2021, các bản tự khai ngày 10/3/2022, 27/5/2022, nguyên đơn là Công ty TNHH MTV Tiên T do ông Trần Văn C đại diện trình bày: Ngày 25/6/2013, Công ty Tiên T ký hợp đồng xây dựng nhà văn hóa UBND xã H theo hợp đồng số 01 ngày 25/6/2013 với UBND xã H, huyện Hiệp Hòa do ông Tạ Đức Khang Chủ tịch UBND xã đại diện ký kết. Công ty thi công đến tháng 5/2015 thì công trình hoàn thành đưa vào sử dụng. UBND xã H đã có phê duyệt quyết toán, đã được Phòng Tài chính Kế hoạch huyện Hiệp Hòa thẩm định quyết toán hoàn thành công trình. Tổng giá trị công trình 2.350.000.000 đồng. Nhưng đến năm 2018, UBND xã H mới quyết toán cho Công ty được 2.170.000.000 đồng, còn nợ Công ty 135.000.000 đồng (do Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Bắc Giang giảm trừ 45.000.000 đồng).
Nay ông đại diện Công ty Tiên T yêu cầu UBND xã H trả số tiền 135.000.000 đồng.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 02/6/2022, bị đơn là UBND xã H do ông Phạm Duy T – Chủ tịch UBND xã H thừa nhận việc ký kết hợp đồng xây dựng với Công ty TNHH MTV Tiên T (do ông Trần Văn C làm giám đốc đại diện) như nội dung trình bày của nguyên đơn đơn. Cụ thể là, năm 2013, UBND xã H có chủ trương xây dựng nhà văn hóa, sau đó giữa UBND xã H do ông Tạ Đức Khang – Chủ tịch UBND xã đại diện và Công ty Tiên T do ông Trần Văn C đại diện đã ký kết “Biên bản thương thảo hợp đồng gói thầu xây lắp công trình: Nhà văn hóa UBND xã H”. UBND xã H là chủ đầu tư, Công ty TNHH MTV Tiên T bên thi công. Biên bản thương thảo hợp đồng có đầy đủ điều khoản cụ thể quy định về nội dung công việc, giá trị hợp đồng. Theo hợp đồng ký kết thì giá trị hợp đồng thi công là 2.574.884.000 đồng. UBND xã đã thanh toán đến năm 2018 tổng số tiền là 2.404.884.000 đồng còn 170 triệu đồng chưa thanh toán, trong đó có 43.106.000 đồng là tiền thu hồi sau thanh tra theo quyết định của Sở Kế hoạch và Đầu tư. Như vậy, số tiền còn nợ là 134.842.000 đồng.
Nay UBND xã H đồng ý trả nợ cho Công ty TNHH MTV Tiên T số tiền 134.842.000đ nhưng do nguồn ngân sách chưa có nên đề nghị xin trả dần.
Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn là ông Trần Văn C giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu UBND xã phải thực hiện nghĩa vụ trả số tiền còn lại theo hợp đồng đã ký kết là 134.842.000đ. Bị đơn là UBND xã H vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiêp Hoà tham gia phiên Toà nhận xét quá trình tiến hành tố tụng, xét xử vụ án, Toà án và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn có thức chấp hành pháp lụât. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 26; Điều 35; Điều 39; khoản 3 Điều 144; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Tiên T do ông Trần Văn C đại diện, buộc UBND xã H do ông Phạm Duy T là Chủ tịch đại diện phải có nghĩa vụ trả Công ty Tiên T số tiền 134.842.000 đồng.
Về án phí: UBND xã H phải chịu án phí DSST: 6.742.000 đồng.
Hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho Công ty Tiên T số tiền 3.375.000 đồng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1]. Về sự vắng mặt của đương sự: Mặc dù bị đơn là UBND xã H do ông Phạm Duy T đại diện vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lần thứ 2 nên cần áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với ông T.
[2]. Về Thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa Công ty TNHH MTV Tiên T với UBND xã H phát sinh từ quan hệ hợp đồng, việc ký kết, thực hiện hợp đồng tại xã H, huyện, Hiệp Hòa nên thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân huyện Hiệp Hòa theo sự lựa chọn của nguyên đơn, phù hợp với quy định tại điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3]. Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào nội dung hợp đồng giao kết giữa đôi bên thì đối tượng của hợp đồng là “Xây lắp công trình: Nhà văn hóa UBND xã H”, nay xảy ra tranh chấp về nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng. Vì vậy, cần xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng xây lắp công trình” (tranh chấp hợp đồng xây dựng), cụ thể là tranh chấp về nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng và áp dụng các quy định của pháp luật tương ứng để giải quyết.
[4]. Xem xét yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Tiên T: Căn cứ đơn khởi kiện, các bản tự khai và các tài liệu chứng cứ nộp kèm theo là “Biên bản thương thảo hợp đồng gói thầu xây lắp công trình: Nhà văn hóa UBND xã H”, phụ lục kèm theo, các Giấy đề nghị thanh toán…, đồng thời được phía bị đơn là ông UBND xã H do ông Phạm Duy T đại diện thừa nhận, có đủ cơ sở để xác định: Ngày 25/5/2013, UBND xã H do ông Tạ Đức Khang – Chủ tịch UBND xã đại diện và Công ty Tiên T do ông Trần Văn C đại diện đã ký kết “Biên bản thương thảo hợp đồng gói thầu xây lắp công trình: Nhà văn hóa UBND xã H”, nội dung thể hiện UBND xã H là chủ đầu tư, Công ty TNHH MTV Tiên T bên thi công xây dựng công trình Nhà văn hóa UBND xã H. Biên bản thương thảo hợp đồng có đầy đủ điều khoản cụ thể quy định về nội dung công việc, giá trị hợp đồng. Theo hợp đồng ký kết thì giá trị hợp đồng thi công là 2.574.884.000 đồng. Sau khi Công ty TNHH MTV Tiên T hoàn thành công việc theo hợp đồng, công trình đã được nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Tính đến năm 2018, UBND xã H đã thanh toán trả cho Công ty Tiên T tổng số tiền là 2.404.884.000, còn 170.000.000đ đồng chưa thanh toán (bao gồm cả số tiền 43.106.000 đồng là tiền thu hồi sau thanh tra theo quyết định của Sở Kế hoạch và Đầu tư). Như vậy, số tiền mà UBND xã H còn nợ Công ty Tiên T được cả hai bên thừa nhận, đồng thời phù hợp với chứng từ thanh toán là 134.842.000 đồng.
Cho đến nay, UBND xã H vẫn chưa thanh toán trả cho Công ty TNHH MTV Tiên T số tiền này là vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng, là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự của UBND xã H, vì vậy, việc Công ty TNHH MTV Tiên T khởi kiện đòi số tiền này là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại các Điều 281, Điều 290, 412 Bộ luật dân sự 2005.
[5]. Về lãi suất chậm trả tiền, phạt vi phạm: Do ông Trần Văn C đại diện cho Công ty TNHH MTV Tiên T tự nguyện không có yêu cầu gì về các nội dung này nên không đặt ra xem xét.
[6]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn là UBND xã H phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 26; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 281, 290, 412 Bộ luật dân sự 2005; Điều 18, 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Tiên T, buộc Ủy ban nhân dân xã H, huyện Hiệp Hòa, do ông Phạm Duy T - Chủ tịch UBND xã đại diện có trách nhiệm trả cho Công ty TNHH MTV Tiên T (do ông Trần Văn C – Giám đốc Công ty đại diện) số tiền 134.842.000đ (một trăm ba mươi tư triệu tám trăm bốn mươi hai nghìn đồng).
- Về án phí: UBND xã H, huyện Hiệp Hòa (do ông Phạm Duy T – Chủ tịch UBND xã đại diện) 6.742.100đ (sáu triệu bảy trăm bốn mươi hai nghìn một trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả Công ty TNHHMTV Tiên T (do ông Trần Văn C – Giám đốc Công ty đại diện) số tiền 3.375.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0007859 ngày 24/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho đương sự có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 68/2022/DS-ST
Số hiệu: | 68/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về