Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 429/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 429/2023/DS-ST NGÀY 24/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG

Ngày 24 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 716/2023/TLST-DS ngày 25 tháng 8 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 471/2023/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị C, Sinh năm 1988 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp V, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: 1. Ông Nguyễn Vũ H, Sinh năm 1995 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.

2. Bà Đỗ Thị N (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.

3. Ông Nguyễn Văn Đ, Sinh năm 1966 (xin vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.

4. Bà Dương Thị Minh T (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 01/8/2023 và quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị C trình bày:

Vào ngày 12/02/2023 dương lịch giữa bà và ông H có hợp đồng xây dựng nhà cấp 4, tổng giá trị 350.000.000 đồng thời gian hoàn thành giao nhà từ ngày 07/02/2022 đến 19/02/2022 al tháng nhuần) Sau khi ký kết hợp đồng thì bà đã đưa vợ chồng ông H số tiền 275.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền thì ông H chỉ bao cuốn nền không hoàn thành công trình xây nhà giao cho bà đúng thỏa thuận. Sau khi ông H vi phạm hợp đồng, cha của ông H là ông Đ và mẹ bà N cam kết bảo lãnh nhưng không thực hiện xây nhà giao cho bà. Sau khi ông H vi phạm hợp đồng xây dựng ông H ký tờ cam kết ngày 16/8/2023 thừa nhận có nhận số tiền 275.000.000 đồng và thi công làm nhà từ ngày 21/8/2023 đến ngày 16/10/2023 hoàn thành và giao nhà cho bà. Nếu không giao được nhà như cam kết thì đồng ý bồi thường số tiền đã ứng trước 275.000.000 đồng.

Tại phiên tòa bà rút lại yêu cầu khởi kiện đối với ông Đ, bà N và bà T và đồng ý đối trừ giá trị bao cuốn nền do ông H đã làm theo định giá 71.000.000 đồng. Khi giao nhận tiền vợ của ông H không có ký biên nhận và chỉ có ông H ký hợp đồng với bà nên bà yêu cầu ông H phải có trách nhiệm trả lại cho bà số tiền 204.000.000 đồng.

Ông Đ trình bày: Việc con ông Nguyễn Vũ H ký hợp đồng xây dựng nhà với bà Nguyễn Thị C như thế nào thì ông không biết, ông có viết tờ cam kết ngày 27/5/2023 do con ông Nguyễn Vũ H đi làm ăn xa kêu ông nhận làm dùm con ông một thời gian, nên ông mới viết tờ cam kết. Bà Đỗ Thị N không có cam kết làm nhà cho bà Nguyễn Thị C, giấy cam kết làm nhà có Đỗ Thị N ký tên người bảo lãnh là do ông viết, bà N không có ký tên. Ông và bà N không có liên quan gì đến việc con ông là anh H hợp đồng làm nhà với bà C. Hảo hiện tại không ở chung ông, H ra sống riêng hơn 10 năm nay. Đối với yêu cầu của bà C yêu cầu ông cùng H, bà N, chị T có trách nhiệm trả số tiền 275.000.000 đồng ông không đồng ý. Do ông có liên quan gì đến việc H và bà C hợp đồng xây dựng nhà, do đó yêu cầu Tòa án xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt ông ở các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm nếu có.

Phần tranh luận đương sự không có ý kiến trình bày tranh luận.

Ý kiến phát biu của Viện kim sát như sau:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C đối với ông Nguyễn Vũ H. Buộc ông Nguyễn Vũ H trả cho bà Nguyễn Thị C 204.000.000 đồng.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C đối với bà Đỗ Thị N, ông Nguyễn Văn Đ và bà Dương Thị Minh T.

Án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”, bị đơn cư trú tại huyện T nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vắng mặt đương sự: Các đương sự ông Nguyễn Vũ H, bà Đỗ Thị N, bà Dương Thị Minh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt, ông Nguyễn Văn Đ xin vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên là đúng theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp: Bà C xác định vào ngày 12/02/2023 dương lịch giữa bà và ông H có hợp đồng xây dựng nhà cấp 4, tổng giá trị 350.000.000 đồng thời gian hoàn thành giao nhà từ ngày 07/02/2022 đến 19/02/2022 al tháng nhuần) Sau khi ký kết hợp đồng thì bà đã đưa vợ chồng ông H số tiền 275.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền thì ông H chỉ bao cuốn nền không hoàn thành công trình xây nhà giao cho bà đúng thỏa thuận. Sau khi ông H vi phạm hợp đồng, ông H tiếp tục cam kết thi công làm nhà từ ngày 21/8/2023 đến ngày 16/10/2023 hoàn thành và giao nhà cho bà. Nhưng ông H vẫn không thực hiện đúng nội dung cam kết, bà yêu cầu ông H trả lại cho bà số tiền 204.000.000 đồng (đối trừ giá trị bao cuốn nền do ông H đã làm theo định giá 71.000.000 đồng). Đối ông H thừa nhận có ký hợp đồng xây dựng và nhận tiền như bà C trình bày là đúng.

[3] Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 02/10/2023 phần công trình nhà ông H đã thi công chỉ đỗ đà bê tông cốt thép, bao cuốn nền bằng gạch. Theo Chứng thư thẩm định giá số 303/2023/CT-TĐG ngày 06/11/2023 của Công ty Cổ phần T2 định giá móng nền nhà (đang xây dựng dở dang có giá trị là 71.000.000 đồng).

[4] Hội đồng xét xử thấy rằng việc ông H và bà c hợp đồng xây dựng nhà là thực tế có xảy ra được các bên thừa nhận, ông H có nhận của bà C số tiền 275.000.000 đồng nhưng không thực hiện đúng hợp đồng. Tại phiên tòa bà C đồng ý đối trừ giá trị công trình do ông H đã làm theo định giá 71.000.000 đồng, chỉ yêu cầu ông H trả lại số tiền 204.000.000 đồng. Do ông H là người vi phạm hợp đồng, bà C khởi kiện yêu cầu ông H trả lại số tiền 204.000.000 đồng là có căn cứ.

Tại phiên tòa bà C rút lại yêu cầu đối với bà Đỗ Thị N, ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị Minh T1, Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu này của bà C.

[5] Về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm:

Chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định 200.000 đồng, chi phí Thẩm định giá 7.000.000 đồng, tổng 7.200.000 đồng ông H phải chịu, bà C đã tạm ứng thanh toán trước, buộc ông H phải trả lại cho bà C 7.200.000 đồng.

Án phí sơ thẩm bà C được nhận lại, buộc ông H phải chịu 10.200.000 đồng (chưa nộp).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điềm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, 157, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166 Bộ luật dân sự; Điều 107, 112 Luật xây dựng, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C đối với ông Nguyễn Vũ H. Buộc ông Nguyễn Vũ H trả cho bà Nguyễn Thị C số tiền 204.000.000 đồng.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C đối với bà Đỗ Thị N, ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị Minh T1.

2. Chi phí tố tụng: Buộc ông Nguyễn Vũ H phải chịu 7.200.000 đồng, do bà Nguyễn Thị C đã tạm ứng trước, do đó buộc ông Nguyễn Vũ H phải trả lại cho bà Nguyễn Thị C 7.200.000 đồng.

K từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người bị thi hành án không thi hành xong khoản tiền phải thi hành án thì còn phải chịu thêm khoản tiền lãi phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với s tiền và thời gian chậm trả.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Ngày 24/8/2023 bà Nguyễn Thị C đã nộp tạm ứng án phí số tiền 6.875.000 đồng biên lai thu số 0007319 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được nhận lại.

Ông Nguyễn Vũ H phải chịu án phí sơ thẩm số tiền 10.200.000 đồng (chưa nộp).

3. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo luật định.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 429/2023/DS-ST

Số hiệu:429/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:24/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về