TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 38/2022/KDTM-PT NGÀY 21/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
Trong các ngày 21/3/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại, thụ lý số 159/2021/TLPT- KDTM ngày 08 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp Hợp đồng xây dựng.
Do bản án sơ thẩm số 15/2021/KDTM-ST ngày 18/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2022/QĐXX-PT ngày 17/01/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2022/QĐ-HPT Ngày 26/01/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B
Trụ sở: P*** nhà D5 – C đường T, phường D, quận C, Hà Nội
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Thái S - Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Hải Q. ( Có mặt).
Bị đơn: Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội
Trụ sở: xã T, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Trung H - Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đức H, bà Nguyễn Thị Phương T.
( Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các biên bản lời khai của Nguyên đơn do người đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 05/6/2008, Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B và Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội ký kết Hợp đồng thi công xây dựng số 43/2008/HĐ-XD về việc thi công gói thầu Asphan đường giao thông thuộc dự án khu nhà ở Anh DV- Hải Phòng theo đúng thiết kế được duyệt, được nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng đúng quy định hiện hành của Nhà nước, tổng giá trị tạm tính theo kết quả đấu thầu là 6.806.164.000 đồng. Sau khi ký kết hợp đồng từ tháng 7/2008 đến hết ngày 9/3/2009 Công ty B đã thi công hoàn thành hạng mục trên và đã bàn giao công trình cho chủ đầu tư đưa vào sử dụng. Ngày 22/4/2009, hai bên ký tiếp phụ lục hợp đồng số 43/PLHĐ-XD bổ sung cho gói thầu với giá trị tạm tính là 121.250.645 đồng. Tổng giá trị Hợp đồng là 7.255.516.329 đồng.
Theo quy định tại điều 7.1 của Hợp đồng xây dựng công trình số 43/2008/HĐ-XD giữa hai bên có quy định:
- Bên A tạm ứng cho bên B 20% giá trị Hợp đồng xây dựng sau khi ký kết Hợp đồng.
- Sau khi hoàn thành thi công công trình, bên B lập hồ sơ quyết toán đầy đủ trình bên A phê duyệt và bên A thanh toán cho bên B đến 90% giá trị quyết toán.
- Sau khi có kết quả thẩm định quyết toán của đơn vị chức năng, bên A thanh toán 5% giá trị quyết toán còn lại.
- Giá trị 5% được bên A giữ để bảo hành công trinh và được thanh toán cho bên B sau khi bên B hoàn thành nghĩa vụ bảo hành có xác nhận của bên A.
Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B đã hoàn thành hồ sơ thanh toán khối lượng thi công với Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội và đã có xác nhận của các bên thông qua hồ sơ quyết toàn khối lượng ngày 8/8/20019. Tình đến ngày 12/2/2010 Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội mới tạm ứng và thanh toán cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền là : 3.660.000.000 đồng.
Nay Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội phải thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền 6.451.385.109 đồng bao gồm nợ gốc: 3.595.516.329 đồng; Nợ lãi: 2.855.768.780 đồng. Ngoài ra Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B không có yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa sơ thẩm Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B chỉ yêu cầu Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội phải thanh toán lãi chậm trả kể từ ngày hai bên ký bản quyết toán là ngày 8/8/2019 cho đến khi xét xử sơ thẩm.
*Tại bản tự khai và các biên bản lấy lời khai tại Tòa án đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và Đô thị Hà Nội trình bày: Công ty cổ phần kinh doenh phát triển nhà và đô thị Hà Nội xác nhận về thời gian ký kết hợp đồng và nội dung hợp đồng như Nguyên đơn trình bày. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B đã nhiều lần chậm tiến độ, Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã phải gia hạn cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B. Mặc dù tiến độ thi công của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B bị kéo dài không đúng với cam kết trong hợp đồng và Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B còn chậm trễ trong công tác hoàn thiện hồ sơ quyết toán, nhưng Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội vẫn luôn thực hiện nghĩa vụ thanh toán hợp đồng và tạo điều kiện cho nhà thầu. Tính đến ngày 12/02/2010, Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã tạm ứng và thanh toán cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền là 3.660.000.000 đồng. Tuy nhiên, Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B mới xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội số tiền 3.360.000.000 đồng, còn thiếu hóa đơn giá trị gia tăng của số tiền 300.000.000 đồng. Phòng tài chính kế toán của Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã nhiều lần liên hệ với Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B về việc phát hành hóa đơn phần còn lại theo giá trị quyết toán của Hợp đồng nhưng Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B cho đến nay vẫn chưa phát hành hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội. Do vậy Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội chưa thanh toán số tiền còn lại cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B, do hồ sơ thanh quyết toán của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B chưa đủ điều kiện để thanh toán theo quy định tại Điều 13 của Hợp đồng số 43/HĐ-XD quy định nghĩa vụ của bên B khi thanh quyết toán công trình phải có đầy đủ chứng từ theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về sự hợp pháp của chứng từ đó. Kế toán của Công ty đã nhiều lần yêu cầu Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B xuất hóa đơn giá trị gia tăng phần còn lại theo giá trị quyết toàn của hợp đồng, nhưng Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B không thực hiện.
Nay Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội chỉ có nghĩa vụ thanh toán số tiền 3.595.516.329 đồng theo điều khoản của hợp đồng khi Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B phát hành và giao hóa đơn giá trị gia tăng đối với số tiền 3.895.516.329 đồng ( bao gồm 300.000.000 đồng đã nhận nhưng chưa phát hành hóa đơn). Đối với khoản tiền lãi do Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B yêu cầu Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội không chấp nhận, vì Công ty không chậm nghĩa vụ trả nợ.
Tại bản án sơ thẩm số 15/2021/ST-KDTM ngày 18/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội đã xử:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng xây dựng của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B đối với Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội.
2.Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội phải thành toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền theo Hợp đồng xây dựng công trình số 43/2008/HĐ-XD ngày 5/6/2008 như sau: Nợ gốc : 3.595.516.329 đồng Nợ lãi: 1.205.729.310 đồng Tổng : 4.801.245.369 đồng 3. Không chấp nhận các yêu cầu khác của các bên đương sự Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm ngày 02/7/2021 Bị đơn Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội có đơn kháng cáo toàn bộ bản án. Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B.
Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Các đương sự xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ đã xuất trình cho Tòa án ra thì không còn chứng cứ nào khác để xuất trình cho Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát sau khi tóm tắt nội dung vụ án và phân tích nội dung vụ án có quan điểm:
+ Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử đã tiến hành xét xử vụ án theo trình tự luật định, các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dung: Theo thỏa thuận tại Điều 13 của các bên trong Hợp đồng số 43/2008/HĐ-XD thì nghĩa vụ của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B khi thanh quyết toán công trình phải có đầu đủ chứng từ theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về sự hợp pháp của chứng từ đó. Ngày 8/8/2019 các bên đã thanh quyết toán công trình nhưng cho đến nay Công ty cổ phần đầu tư xây dựng B vẫn không xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà đô thị Hà Nội, nên Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội không thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dụng B số tiền 3.595.516.329 đồng. Căn cứ khoản 2 Điều 16 Thông tư 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ quy định về hóa đon bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B buộc Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội phải thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền 3.595.516.329 đồng sau khi Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B xuất hóa đơn GTGT; Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội không phải thanh toán khoản tiền lãi của số tiền này cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B; Về án phí các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà
[1]. Về tố tụng : Đơn kháng cáo của Bị đơn Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội làm trong thời hạn luật định, người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, nên việc kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2]. Về Nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của Bị đơn là Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội Hội đồng xét xử xét thấy: Các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện: Ngày 5/6/2008, Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B và Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã ký kết Hợp đồng xây dựng công trình số 43/2008/HĐ-XD ngày 5/6/2008 với nội dung: Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội giao cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B thực hiện thi công gói thầu Asphan đường giao thông thuộc Dự án khu nhà ở Anh DV- Hải Phòng theo đúng thiết kế được duyệt; Thời gian khởi công kể từ ngày Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội bàn giao mặt bằng, khởi công; Hoàn thành sau 30 ngày kể từ ngày khởi công; Giá trị Hợp đồng tạm tính theo kết quả đấu thầu là 6.806.164.000 đồng; Ngoài ra Hợp đồng có các thỏa thuận về nội dung công việc và sản phẩm của Hợp đồng; thanh toán Hợp đồng; Bảo hiểm; Tranh chấp và giải quyết tranh chấp; Phạt vi phạm Hợp đồng; Quyền và nghĩa vụ của các bên và một số điều khoản khác.
Ngày 22/4/2009, hai bên ký phụ lục Hợp đồng số 43/2008/HĐ-XD ngày 5/6/2008 bổ sung cho gói thầu với giá trị tạm tính là 121.250.645 đồng. Như vậy tổng giá trị Hợp đồng xây dựng công trình số 43/2008/HĐ-XD ngày 5/6/2008 là 7.255.516.329 đồng.
Xét thấy, Hợp đồng và phụ lục Hợp đồng được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, về hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật, nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.
Quá trình thực hiện Hợp đồng Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B đã thi công hoàn thành xong các công việc như đã ký kết trong Hợp đồng và đã bàn giao cho chủ đầu tư đưa vào sử dụng ngày 09/03/2009, hai bên không có tranh chấp gì về khối lượng, chất lượng, tiến độ cũng như các khoản bảo hành, bảo hiểm. Các bên đương sự đều xác nhận ngày 08/08/2019 hai bên đã thông qua hồ sơ quyết toán khối lượng và xác nhận giá trị thực hiện Hợp đồng là 7.255.516.329 đồng.
Quá trình giải quyết tại Tòa án các đương sự đều xác nhận Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền 3.660.000.000 đồng và xác nhận số tiền còn lại Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội chưa thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B là: 3.595.516.329 đồng. Do vậy, tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và Đô thị Hà Nội phải có nghĩa vụ thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền là 3.595.516.329 đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
*Về lãi chậm trả: Xét yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội cho rằng do Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B chưa hoàn thiện hồ sơ thanh toán theo quy định tại Điều 13 của Hợp đồng, cụ thể Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B không xuất hóa đơn giá trị gia tăng của số tiền 3.595.516.329 đồng, nên Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội không có lỗi trong việc chậm thanh toán, nên Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội không đồng ý thanh toán lãi chậm trả cho công ty cổ phần đầu tư xây dựng B. Hội đồng xét xử xét thấy: Tại Điều 13 của hợp đồng số 43/2008/HĐ-XD ngày 5/6/2008 quy định quyền nghĩa vụ của bên B: “.... Khi thanh quyết toán công trình phải có đầy đủ các chứng từ theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về sự hợp pháp của chứng từ đó....”. Quá trình giải quyết các bên đương sự đều xác nhận quá trình thực hiện Hợp đồng Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B đã xuất 01 hóa đơn GTGT với giá trị là 3.360.000.000 đồng ( là số tiền Công ty cổ phần kinh doanh phát triển và đô thị Hà Nội đã tạm ứng cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B) Theo quy định tại khoản 2 Điều 16 thông tư 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/ND-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa cung ứng dịch vụ và mục c khoản 4 Điều 9 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định: “ Ngày lập hóa đơn đối với xây dựng, lắp đặt là thời điểm nghiệm thu, bàn giao công trình, hạng mục công trình, khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền”.
Quá trình giải quyết và tại phiên tòa, các bên đương sự đều xác nhận ngày 8/8/2019 Công ty cổ phần đầu tư xây dựng B và Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã ký quyết toán khối lượng và xác nhận giá trị thực hiện hợp đồng là 7.255.516.329 đồng. Như vậy, theo thỏa thuận của các bên thì Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng B phải xuất hóa đơn GTGT cho Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đối với số tiền chưa thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền là 3.595.516.329 đồng vào ngày 8/8/2019.
Các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện ngày 03/3/2020, giữa Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và Đô thị Hà Nội và Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B đã lập biên bản thỏa thuận số 51/BBTT/2020 tại Mục 3 của biên bản thỏa thuận nêu: “ Sau khi đối trừ công nợ bên B còn nợ bên A số tiền ...... số tiền này bên B sẽ có trách nhiệm thanh toán cho bên A. Bên B có trách nhiệm xuất hóa đơn giá trị gia tăng theo giá trị quyết toán của Hợp đồng xây dựng công trình số 43/2008/HĐ-XD ký ngày 05/6/2008 với số tiền là 3.895.516.329 đồng trước khi tiền hành công tác đối trừ công nợ giữa hai bên...”. Ngoài ra, Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội và Công ty cổ phần đầu tư xây dựng B đã nhiều lần họp về việc đối chiếu công nợ ( Ngày 10/7/2020; ngày 8/12/2020) tại các biên bản họp này Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đều có đề nghị Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B phải xuất hóa đơn GTGT còn thiếu cho Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội. Các đương sự xác nhận cho đến nay Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B vẫn chưa xuất hóa đơn GTGT đối với số tiền 3.595.516.329 đồng cho Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội và số tiền 300.000.000 đồng mà Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã thanh toán cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B.
Việc Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B không xuất hóa đơn giá trị gia tăng đối với số tiền 3.895.516.329 đồng cho Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội là vi phạm quy định của Nhà nước trong lĩnh vực thuế và làm ảnh hướng đến việc khấu trừ đầu vào và quyết toán thuế đối với cơ quan thuế.
Từ những căn cứ trên có cơ sở xác định Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội không có lỗi trong việc chậm trả số tiền 3.595.516.329 đồng cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B. Do vậy, Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội không phải thanh toán tiền lãi chậm trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B buộc Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội phải thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền lãi chậm trả của số tiền này là không đúng.
Mặt khác, Bản án sơ thẩm tuyên buộc Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội phải thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền 3.595.516.329 đồng, nhưng không tuyên buộc Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B phải xuất hóa đơn GTGT theo quy định của pháp luật đối với số tiền 3.595.516.329 đồng và số tiền 300.000.000 đồng mà Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã thanh toán cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B là không đúng với quy định của pháp luật, do vậy cấp sơ thẩm cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm.
Từ những phân tích trên có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội.
Đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ nên được chấp nhận.
[3]. Về án phí: Do sửa án sơ thẩm, nên Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 30, 220; Khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015
Căn cứ Điều 81 Luật xây dựng năm 2003; Điều 20 Luật kế toán năm 2015; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Sửa bản án sơ thẩm số 15/2021/KDTM-ST ngày 18/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B đối với Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội.
2. Buộc Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội phải thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dưng B số tiền còn nợ theo Hợp đồng xây dựng công trình số 43/2008/HĐ-XD ngày 05/6/2008 là 3.595.516.329 đồng. Sau khi Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B xuất hóa đơn GTGT đối với số tiền 3.595.516.329 đồng và số tiền 300.000.000 đồng mà Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội đã thanh toán trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B theo quy định của pháp luật.
4. Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
5. Về án phí:
+ Án phí sơ thẩm: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B phải chịu 48.171.879 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, được trừ vào 57.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí Công ty đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0009263 ngày 5/10/2020. Hoàn trả cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng B số tiền 8.828.121 đồng.
Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và Đô thị Hà Nội phải chịu 103.910.326 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
+ Án phí phúc thẩm: Hoàn trả cho Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0062194 ngày 02/7/2021 của chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành án đối với số tiền phải thanh toán, thì người phải thi hành án phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm thanh toán tương ứng với thời gian chậm thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành xong bản án.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự;
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 38/2022/KDTM-PT
Số hiệu: | 38/2022/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 21/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về