Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 242/2023/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 242/2023/KDTM-PT NGÀY 10/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG

Trong các ngày 09 +10/11/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 196/2023/KDTM - PT ngày 12/10/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”. Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 38/2023/KDTM-ST ngày 23/8/2023 của Toà án nhân dân quận C bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 705/2023/QĐXXPT-KDTM ngày 23/10/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 722/2023/QĐ-HPT ngày 03/11/2023, giữa:

Nguyên đơn: Công ty Cổ phần P.

Địa chỉ: Số 69 ngõ 259 phố Yên Hòa, phường Yên Hòa, quận C, thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Trung C - Tổng Giám đốc

Người đại diện thoe ủy quyên: bà Trần Thị Ngọc Chinh; Chức vụ: kế toán Công ty

Bị đơn: Công ty Cổ phần xây dựng F.

Địa chỉ: Số 265 đường C, phường Dịch Vọng, quận C, thành phố H

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Tiến D - Chủ tịch HĐQT

Người đại diện theo ủy quyền: Các ông Nguyễn Hải Tr, Trần Văn H;

Chức vụ: Cán bộ pháp chế Công ty (Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Ngày 15/01/2021, Công ty Cổ phần P (Gọi tắt là Công ty P) và Công ty Cổ phần xây dựng F (Gọi tắt là Công ty FLC) ký Hợp đồng thi công số 05/2021/HĐTC/TRAVEL/FLCFR-POOLTEK (Hợp đồng số 05). Nội dung: Công ty P cung cấp vật tư và thi công lắp đặt hệ thống công nghệ bề bơi cho công trình "Bế bơi ngoài nhà" thuộc dự án "Trung tâm hội nghị quốc tế FLC V" tại xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Tường, tỉnh V cho Công ty FLC. Tổng giá trị hợp đồng là 2.675.773.159 đồng.

Thực hiện Hợp đồng, Công ty P đã hoàn thành xong việc cung cấp vật tư và thi công lắp đặt hệ thống công nghệ bể bơi cho công trình. Sau khi Công ty P đã thực hiện xong các công việc theo thỏa thuận tại hợp đồng, các bên đã tiến hành nghiệm thu.

Ngày 08/12/2021, đại diện Công ty P và đại diện Công ty FLC đã ký hồ sơ giá trị thanh toán theo đúng quy định của Hợp đồng. Theo Hồ sơ giá trị thanh toán đợt 1 Hợp đồng số 05, Công ty FLC phải thanh toán cho Công ty P số tiền là 2.675.773.159 đồng.

Kể từ ngày 08/12/2021 là ngày hồ sơ giá trị quyết toán được Công ty FLC chấp thuận hợp lệ, thì theo thỏa thuận tại điều 9.3 của hợp đồng, Công ty FLC sẽ phải thực hiện việc thanh toán toàn bộ giá trị quyết toán cho Công ty P trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ (tức là từ ngày 08/12/2021 đến hết ngày 13/12/2021). Tuy nhiên, hết thời hạn này, Công ty FLC không thực hiện việc thanh toán theo cam kết trong Hợp đồng 05.

Công ty P đã nhiều lần gửi email yêu cầu thanh toán nhưng Công ty FLC vẫn không thanh toán số tiền nợ.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng số 05 ngày 15/01/2021 với tổng số tiền: 2.889.835.012 đồng bao gồm số tiền gốc 2.675.773.159 đồng và lãi suất chậm trả 214.061.853 đồng.

Nếu bị đơn đồng ý thanh toán tất cả công nợ cho nguyên đơn số tiền là 2.675.773.159 đồng trước ngày 31/08/2023 thì nguyên đơn sẽ không yêu cầu bị đơn thanh toán lãi suất chậm trả là 214.061.853 đồng.

Bị đơn Công ty Cổ phần xây dựng F: Thừa nhận việc ký kết và thực hiện hợp đồng đúng như Nguyên đơn trình bày. Công ty FLC thừa nhận việc còn nợ số tiền đúng như Công ty P yêu cầu.

Bản án sơ thẩm số 38/2023/KDTM-ST ngày 23/8/2023 của Toà án nhân dân quận C, thành phố H đã quyết định:

“1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần P đối với Công ty Cổ phần xây dựng F về việc "Tranh chấp hợp đồng thi công" 2. Buộc Công ty Cổ phần xây dựng F thanh toán cho Công ty Cổ phần P khoản tiền theo Hợp đồng thi công số 05/2021/HĐTC/TRAVEL/FLCFR-POOLTEK là 2.889.835.012 đồng (Trong đó khoản nợ gốc là: 2.675.773.159 đồng; và 214.061.853 đồng lãi suất chậm trả)”.

Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ phải chịu án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm, Công ty FLC có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về lãi chậm trả. Cụ thể: Tại Điều 20 hợp đồng 05 quy định lãi suất chậm trả được tính theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm đồng Việt Nam kỳ hạn 06 tháng lãi trả cuối kỳ do Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam công bố áp dụng tại thời điểm thanh toán tính. Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn không xuất trình quyết định của Ngân hàng BIDV về mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm đồng Việt Nam kỳ hạn 06 tháng kể từ sau ngày 13/12/2021 mà nguyên đơn đang tính lãi chậm trả cũng như Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập tài liệu, chứng cứ nhưng đã nhận định trong bản án sơ thẩm về mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam kỳ hạn 12 tháng lãi trả cuối kỳ do Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) áp dụng vào thời điểm tháng 12/2021 là 5,50%/năm để từ đó buộc bị đơn phải trả lãi chậm trả tương đương 8% giá trị hợp đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất mức lãi suất chậm trả mà Bị đơn phải thanhh toán là 4%/năm tương ứng với mức lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng tại BIDV nơi Nguyên đơn mở tài khoản nhưng không thống nhất được thời hạn phải chịu lãi suất bởi nguyên đơn cho rằng ngày phải chịu lãi suất chậm trả là sau 5 ngày kể từ ngày nguyên đơn xuất hóa đơn VAT tức ngày 13/12/2021. Bị đơn cho rằng ngày phải chịu lãi chậm trả là ngày 29/01/2022 (Ngày kế toán hai bên khớp số liệu).

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H trình bày quan điểm và đề xuất hướng giải quyết vụ án có nội dung chính:

Tại phiên tòa HĐXX đã thực hiện đúng quy định và yêu cầu chung của phiên tòa phúc thẩm: Thành phần HĐXX phúc thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm đúng quy định tại Điều 64 và Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự. Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 51 BLTTDS. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Tại phiên tòa, các đương sự đã được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung kháng cáo: Do các đương sự không tranh chấp về hợp đồng số 05 và không tranh chấp về số nợ gốc phải thanh toán nên xác định số tiền gốc bị đơn phải thanh toán trả nguyên đơn là đúng. Đối với khoản tiền lãi bị đơn phải trả, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận mức lãi suất là 8%/năm tuy nhiên tại cấp phúc thẩm nguyên đơn đã xuất trình quyết định về lãi suất của BIDV đối với kỳ hạn các bên thỏa thuận tại hợp đồng là 4%, bị đơn cũng nhất trí với mức lãi suất này nhưng không đồng ý với thời gian phải chịu lãi chậm trả. Theo thỏa thuận của các bên tại Điều 9,3 của hợp đồng thì thời gian phải chịu lãi suất là sau 5 ngày kể từ ngày nguyên đơn nộp hồ sơ thanh toán nên thời hạn để tính lãi chậm trả là ngày 13/12/2021. Kháng cáo của bị đơn có căn cứ chấp nhận một phần. Đề nghị căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Về tố tụng: Đơn kháng cáo và biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm của Công ty Cổ phần xây dựng F (Công ty FLC) làm và nộp trong thời hạn luật định nên kháng cáo được chấp nhận về hình thức.

Xét về nội dung:

Về tính pháp lý của Hợp đồng thi công số 05/2021/HĐTC/TRAVEL/FLCFR-POOLTEK ngày 15/01/2021 (Hợp đồng 05) do không có đương sự nào kháng cáo nên HĐXX cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng 05 có hiệu lực thi hành đối với các bên tham gia ký kết.

Bị đơn không kháng cáo về nghĩa vụ trả nợ gốc số tiền 2.675.773.159 đồng mà bản án sơ thẩm đã tuyên nên HĐXX cấp phúc thẩm không xem xét.

Xét kháng cáo của Công ty FLC về lãi chậm trả.

Ngày 08/12/2021, đại diện công ty P và đại diện công ty FLC đã lập và ký kết hồ sơ giá trị thanh toán theo đúng quy định của Hợp đồng và số tiền Công ty FLC phải thanh toán cho Công ty P số tiền là 2.675.773.159 đồng. Tại khoản 3 Điều 9 của hợp đồng 05 quy định về việc thanh toán vật tư thì “Sau khi bên B tập kết một phần hoặc toàn bộ vật tư về đến công trường được Chủ đầu tư, Bên A, Nhà tư vấn nghiệm thu trong thời gian 05 (Năm) ngày làm việc kể từ ngày (i) bên A nhận đầy đủ hồ sơ thanh toán của bên B, bên A sẽ thanh toán cho bên B đến 85% (Tám mươi lăm phần trăm) giá trị vật tư về đến công trường được Chủ đầu tư, Bên A, Nhà tư vấn nghiệm thu của từng lần thanh toán trừ đi giá trị thu hồi tiền tạm ứng theo quy định tại Điều 9.2 của Hợp đồng”.

Ngày 08/12/2021, đại diện công ty P và đại diện công ty FLC đã lập và ký kết hồ sơ giá trị thanh toán theo đúng quy định của Hợp đồng và số tiền Công ty FLC phải thanh toán cho Công ty P số tiền là 2.675.773.159 đồng. Tại khoản 3 Điều 9 của hợp đồng 05 quy định về việc thanh toán vật tư sau khi bên Bên B tập kết một phần hoặc toàn bộ vật tư về đến công trường được Chủ đầu tư, Bên A, Nhà tư vấn nghiệm thu, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Bên A nhận đầy đủ hồ sơ thanh toán của Bên B, Bên A sẽ thanh toán cho Bên B đến 85% giá trị vật tư về đến công trường được Chủ đầu tư, Bên A, Nhà tư vấn nghiệm thu của từng lần thanh toán và trừ đi giá trị thu hồi tiền tạm ứng theo quy định tại Điều 9.2(b) của hợp đồng.

Nguyên đơn Công ty P đã hoàn tất việc gửi hồ sơ thanh toán chi phí vật tư cho Bị đơn Công ty FLC. Căn cứ theo Hóa đơn giá trị gia tăng số 00000001 do Công ty P xuất ngày 10/11/2021 có giá trị 5.501.589.672đồng (đã gồm thuế GTGT). Theo quy định tại điểm a khoản 9.3 Điều 9 Hợp đồng số 05 thì sau 05 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ thanh toán, Công ty F phải thanh toán 85% giá trị vật tư.

Do đó Công ty FLC có nghĩa vụ phải thực hiện việc thanh toán toàn bộ giá trị quyết toán cho Công ty P trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ (từ ngày 10/11/2021 đến hết ngày 15/11/2021). Tuy nhiên hết ngày 15/11/2021, Công ty FLC không thực hiện nghĩa vụ thanh toán trên nên kể từ ngày 16/11/2021 Công ty Faros phải chịu lãi chậm trả tương ứng với số tiền chậm thanh toán.

Tại khoản 8 Điều 20 Hợp đồng 05 quy định về việc phạt vi phạm hợp đồng như sau: "Nếu Bên A thanh toán chậm cho Bên B thì Bên A sẽ phải trả lãi cho những ngày chậm thanh toán theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm đồng Việt Nam kỳ hạn 06 (sáu) tháng lãi trả cuối kỳ do Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) công bố áp dụng tại thời điểm thanh toán tính trên số tiền và số ngày chậm thanh toán. Tổng số tiền lãi không vượt quá 08% (tám phần trăm) tổng số tiền chậm thanh toán". Các bên đã thống nhất mức phạt vi phạm hợp đồng tối đa là 8% giá trị vi phạm và được áp dụng cách tính theo cách tính lãi suất tiền gửi tiết kiệm đồng Việt Nam của Ngân hàng BIDV.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn xuất trình Quyết định điều chỉnh lãi suất số 1291/QĐ-BIDV.ĐĐ ngày 01/12/2020 của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô theo đó mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam kỳ hạn 12 tháng trả lãi cuối kỳ là 4%/năm. Do đó số tiền lãi phạt chậm trả Công ty FLCphải thanh toán cho Công ty P tính từ 16/11/2021 đến 23/8/2023 là: 4%/năm x 645 ngày x 2.675.773.159 đồng = 189.136.842 đồng. So với mức 8% giá trị hợp đồng tương đương 214.061.853 đồng là thấp hơn. Như vậy số tiền lãi chậm thanh toán bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 189.136.842 đồng.

Do đó kháng cáo của bị đơn có căn cứ nên được chấp nhận.

Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Từ những nhận định trên

Áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

QUYẾT ĐỊNH

Sửa bản án kinh doanh thương mại số 38/2023/KDTM-ST ngày 23/8/2023 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố H.

Xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần P đối với Công ty Cổ phần xây dựng F về việc "Tranh chấp hợp đồng xây dựng".

Công ty Cổ phần xây dựng F thanh toán cho Công ty Cổ phần P khoản tiền theo Hợp đồng thi công số 05/2021/HĐTC/TRAVEL/FLCFR-POOLTEK là 2.864.910.001 đồng (Trong đó khoản nợ gốc là: 2.675.773.159 đồng và 189.136.842 đồng lãi suất chậm trả).

Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm (24/8/2023) người phải thi hành án còn tiếp tục phải chịu lãi suất đối với khoản tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất quy định tịa khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

Công ty Cổ phần xây dựng F phải chịu 89.298.200đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, Công ty đã nộp tạm ứng 2.000.000đồng tạm ứng theo Biên lai số 19717 ngày 14/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận C nay được trừ vào tiền án phí phải nộp.

Công ty Cổ phần P phải chịu 3.000.000đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thầm, Công ty đã nộp tạm ứng 44.800.000 đồng theo Biên lai số 19464 ngày 29/5/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận C nay được hoàn trả 41.800.000đ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự;

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 242/2023/KDTM-PT

Số hiệu:242/2023/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 10/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về