Bản án về tranh chấp hợp đồng vay vốn số 480/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 480/2022/DS-PT NGÀY 25/11/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY VỐN

Ngày 25 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai vụ án thụ lý số 366/2022/TLPT- DS ngày 06 tháng 10 năm 2022, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay vốn”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 143/2022/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 426/2022/QĐ-PT ngày 26/10/2022, Quyết định hoãn phiên toà số 497/2022/QĐPT-HPT ngày 11/11/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt H, sinh năm 1975;

Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số 4D1 tập thể N, phường N, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

- Pháp nhân đại diện theo ủy quyền: Công ty Luật TNHH M Trụ sở: BT16A3-12 Làng V, Khu đô thị mới M, phường M, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội (Văn bản ủy quyền ngày 01.3.2021) - Người đại diện theo pháp luật: Luật sư Phạm Hồng S – Giám đốc.

Ông Phạm Hồng S cử luật sư Trần Văn V và bà Bùi Thu H tham gia tố tụng (Quyết định ngày 17.6.2022).

* Bị đơn: Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B (PTICO);

Trụ sở: Số 82 (địa chỉ cũ 38) phố C, phường L, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Địa chỉ liên lạc: Tầng 17 Tòa nhà M, số 5, ngõ 82 D, phường V, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Phú B- Tổng giám đốc - Người đại diện theo ủy quyền:

1. Ông Trịnh Quang C, địa chỉ: Số 165, ngõ 173, đường H, phường N, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

2. Ông Bùi Hoài T, địa chỉ: Số 14, hẻm 267/2/16 đường H, phường L, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. (Văn bản ủy quyền ngày 27.6.2022).

Người kháng cáo, Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án dân sự sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

* Theo đơn khởi kiện ngày 21.3.2022của ông Nguyễn Việt H và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án dobà Bùi Thu H đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ông Nguyễn Việt H nguyên là nhân viên Phòng Kế toán thuộc Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B (sau đây gọi tắt là Công ty). Năm 2008 khi Công ty gặp khó khăn cần huy động vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh, ông đã cho Công ty vay vốn bằng khoản tiền lương mà Công ty nợ.

Ngày 26.3.2008, giữa ông Nguyễn Việt H và Công ty ký Hợp đồng vay vốn số 246/2008/PTICC-HĐVV, số tiền vay là 45.256.111 đồng, mục đích vay là phục vụ sản xuất kinh doanh theo phương án huy động vốn năm 2008, thời hạn vay là 24 tháng kể từ ngày 27.3.2008. Lãi suất áp dụng cho khoản vay từ ngày 27.3.2008 đến ngày 26.3.2009 là 8,5%/năm. Lãi suất áp dụng cho khoản vay từ ngày27.3.2009 sẽ áp dụng theo lãi suất trái phiếu Chính phủ (do Ngân hàng Phát triển Nhà nước Việt Nam phát hành loại thời hạn 5 năm) kỳ gần nhất liền trước ngày 27.3.2009. Việc thay đổi lãi suất sẽ được PTICC thông báo bằng văn bản qua đường thư, fax hoặc gửi trực tiếp đến Bên Cho vay. Trường hợp PTICC không có thông báo thì lãi suất áp dụng trong thời kỳ trả nợ tiếp theo được coi là không điều chỉnh và bằng lãi suất của kỳ hạn liền trước.

Tiền gốc, lãi được thanh toán làm 02 đợt:

- Đợt 1: Ngày 27.3.2009 thanh toán 50% nợ gốc + lãi.

- Đợt 2: Ngày 27.3.2010 thanh toán hết nợ gốc + lãi.

Năm 2012, hai bên ký Phụ lục 01 – Hợp đồng vay vốn Cán bộ công nhân viên để xác nhận lại số tiền vay giảm xuống vì giảm doanh thu quyết toán Công ty trong giai đoạn 2008-2010 do các cơ quan thanh tra kiểm tra xác định lại quỹ tiền lương, số tiền lương Công ty phải trả cho người lao động từ 2004 – 2007 và trừ thuế thu nhập cá nhân, các quỹ người lao động phải nộp năm 2008. Phụ lục xác định số tiền gốc vay là 35.523.549 đồng, lãi phải trả đến ngày31.12.2011 là 11.524.434 đồng, dự kiến Công ty trả hết nợ gốc và lãi cho ông Hà vào ngày 31.12.2014.

Công ty đã trả ông Nguyễn Việt H 19.870.782 đồng nợ gốc:

- Ngày 10.10.2012: Công ty trả 3.000.000 đồng - Ngày 24.10.2012: Công ty trả 4.105.000 đồng - Ngày 31.12.2014: Công ty trả 2.842.000 đồng - Ngày 06.5.2015: Công ty trả 2.558.000 đồng - Ngày 02.10.2015: Công ty trả 3.452.782 đồng - Ngày 30.12.2015: Công ty trả 3.913.000 đồng Công ty còn nợ gốc số tiền là: 15.652.767 đồng.

Trong quá trình thực hiện Hợp đồng vay vốn và Phụ lục 01, Công ty không thanh toán đúng thỏa thuận qua việc chỉ trả một phần gốc và trả không đúng hạn, không trả lãi vay.

Ngày 16.9.2019, ông Nguyễn Việt H nhận được văn bản của Công ty Bưu Điện yêu cầu mang Hợp đồng vay vốn và Phụ lục 01 đến đối chiếu, ký xác nhận vào bảng số liệu nợ gốc tính đến ngày 30.8.2019 do Công ty lập. Công ty Bưu Điện cam kết thanh toán cho các hợp đồng hoàn thiện thanh toán trước ngày 15.11.2019 nhưng sau đó Công ty Bưu Điện không thực hiện thanh toán. Hiện ông Nguyễn Việt H không còn giữ công văn ngày 16.9.2019 của Công ty do bị thất lạc.

Nay ông Nguyễn Việt H khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết:

Buộc Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B phải thanh toán cho ông Nguyễn Việt H nợ gốc là 15.652.767 đồng, nợ lãi từ ngày 27.3.2008 đến ngày 31.12.2011 (đã được xác nhận tại phụ lục hợp 01 năm 2012) là 11.524.434 đồng, nợ lãi từ ngày 01.01.2012 đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 8,5%/năm là 18.416.889 đồng. Tổng cộng là 45.594.090 đồng.

Ngoài ra nguyên đơn không còn yêu cầu gì khác.

* Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn không có văn bản nêu quan điểm về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không nộp tài liệu chứng cứ ngoài việc gửi Giấy ủy quyền số 76/UQ-PTICO ngày 27.6.2022.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

* Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

* Đại diện theo ủy quyền của bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 143/2022/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt H đối với Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B (PTICO).

2. Buộc Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B (PTICO) phải thanh toán cho ông Nguyễn Việt H nợ gốc là 15.652.767đồng, nợ lãi từ ngày 27.3.2008 đến ngày xét xử sơ thẩm là 30.021.517 đồng. Tổng cộng là 45.674.284 đồng (Bốn mươi lăm triệu, sáu trăm bảy mươi tư nghìn, hai trăm tám tư đồng).

Ngoài ra Bản án còn quyết định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không đồng ý, Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm; Đơn kháng cáo của Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B có nội dung chính:

Hợp đồng vay vốn trong vụ án nêu trên là Hợp đồng khống, không có tiền chuyển quĩ của Công ty Cổ phần đầu tư và Xây dựng Bưu Điện, cũng không có giấy nộp tiền ông Nguyễn Việt H cho Công ty. Tại thời điểm đó Công ty Cổ phần đầu tư và Xây dựng Bưu Điện là Công ty thuộc sở hữu Nhà nước, do đó việc ký kết hợp đồng và chi trả tiền cho ông Hà đã làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Công ty đã có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa xác minh thông tin trên. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, Công ty chưa nhận được thông tin phản hồi.

Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xem xét lại toàn bộ Bản án sơ thẩm và ra quyết định đình chỉ giải quyết hoặc bác yêu cầu của các Nguyên đơn, bảo đảm được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đương sự giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, không xuất trình chứng cứ mới.

Tham gia phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm:

Về tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung, sau khi phân tích đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội xác định yêu cầu kháng cáo của Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B là không có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng, Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B nộp đơn kháng cáo, nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong hạn luật định là hợp lệ.

Về nội dung, xét yêu cầu kháng cáo của Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Ngày 26.3.2008 ông Nguyễn Việt H với Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B ký Hợp đồng vay vốnsố 246/2008/PTICC-HĐVV ngày 26.3.2008 số tiền vay 45.256.111đồng, mục đích vay là phục vụ sản xuất kinh doanh theo phương án huy động vốn năm 2008, biện pháp bảo đảm là tín chấp, thời hạn vay là 24 tháng kể từ ngày 27.3.2008. Lãi suất áp dụng cho khoản vay từ ngày 27.3.2008 đến ngày 26.3.2009 là 8,5%. Lãi suất áp dụng cho khoản vay từ ngày 27.3.2009 sẽ áp dụng theo lãi suất trái phiếu Chính Phủ (do Ngân hàng Phát triển Nhà nước Việt Nam phát hành loại thời hạn 5 năm) kỳ gần nhất liền trước ngày 27.3.2009. Việc thay đổi lãi suất sẽ được PTICC thông báo bằng văn bản qua đường thư, fax hoặc gửi trực tiếp đến bên Cho vay. Trường hợp PTICC không có thông báo thì lãi suất áp dụng trong thời kỳ trả nợ tiếp theo được coi là không điều chỉnh và bằng lãi suất của kỳ hạn liền trước.

Tiền gốc, lãi được thanh toán làm 02 đợt:

- Đợt 1: Ngày 27.3.2009 thanh toán 50% nợ gốc + lãi - Đợt 2: Ngày 27.3.2010 thanh toán hết nợ gốc + lãi Năm 2012, hai bên ký Phụ lục 01 – Hợp đồng vay vốn cán bộ công nhân viên năm 2012 xác định số tiền ông Nguyễn Việt H đã cho Công ty vay là 35.523.549 đồng, xác định lãi phải trả đến ngày 31.12.2011, Công ty dự kiến trả hết nợ gốc và lãi vào ngày 31.12.2014.

Thực chất, Hợp đồng vay vốn là khoản tiền lương mà Công ty nợ ông Nguyễn Việt H được chuyển thành tiền vay. Do đó, Hợp đồng vay vốn trong vụ án không có tiền chuyển quĩ của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện, cũng không có giấy nộp tiền của ông Nguyễn Việt H cho Công ty là đúng sự thật như kháng cáo của Công ty. Tuy nhiên, không vì thế mà Hợp đồng vay vốn không có hiệu lực, hợp đồng khống như kháng của Công ty.

Xét thấy Hợp đồng vay vốn số 246/2008/PTICC-HĐVV ngày 26.3.2008 ký giữa hai bên, Phụ lục 01 Hợp đồng vay vốn cán bộ công nhân viên năm 2012 được ký kết giữa Công ty với ông Nguyễn Việt H là hoàn toàn tự nguyện, nội dung và hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên xác định là hợp pháp và có hiệu lực thi hành đối với các bên tham gia.

Do Công ty vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng vay vốn, Bản án dân sự sơ thẩm buộc Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện trả số tiền gốc còn lại và số tiền lãi chưa trả là phù hợp với quy định của pháp luật.

Như đã trích dẫn và phân tích trên, Bản án dân sự sơ thẩm đã căn cứ và áp dụng đúng các quy định của pháp luật hiện hành để xét xử vụ kiện, kháng cáo của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện không có căn cứ, không được chấp nhận; cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

Án phí phúc thẩm: Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, 35, 39, 271, 273, 280 khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 155, 463, 466, 468, 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Toà án; Luật Thi hành án dân sự.

Xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số143/2022/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, cụ thể như sau:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt H đối với Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B (PTICO).

2. Buộc Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B (PTICO) phải thanh toán cho ông Nguyễn Việt H nợ gốc là 15.652.767 đồng, nợ lãi từ ngày 27.3.2008 đến ngày xét xử sơ thẩm là 30.021.517 đồng. Tổng cộng là 45.674.284 đồng (bốn mươi lăm triệu, sáu trăm bảy mươi tư nghìn, hai trăm tám tư đồng).

3 Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền:

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu, nếu người bị thi hành án chưa thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì người bị thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357, Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án xong.

4. Quyền, nghĩa vụ khi thi hành án dân sự:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về án phí:

* Án phí sơ thẩm:

Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B phải chịu 2.283.714đ (hai triệu, hai trăm tám mươi ba nghìn, bảy trăm mười bốn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả ông Nguyễn Việt H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.045.000đ (một triệu, không trăm bốn năm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 069980 ngày 13/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa.

* Án phí phúc thẩm: Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng B phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 070688 ngày 30/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay vốn số 480/2022/DS-PT

Số hiệu:480/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:25/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về