Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và mua bán tài sản số 47/2024/DS-ST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 47/2024/DS-ST NGÀY 23/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ MUA BÁN TÀI SẢN

Trong các ngày 21, 23 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 816/2023/TLST-DS ngày 27 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2024/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Ú; Sinh năm: 1969; Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau;

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Quách Trọng P; Sinh năm: 1981; Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện N, tỉnh Cà Mau; (có mặt)

- Bị đơn: Ông Lê Hoàng K, sinh năm 1957 và bà Trương Hồng L, sinh năm 1955; Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau;

Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Hoàng K: Bà Nguyễn Thảo N, sinh năm 1990; Nơi cư trú: 359/1, KV B, L, Quận B, Thành phố Cần Thơ; (có mặt)

Người đại diện theo ủy quyền của bà Trương Hồng L: Bà Lê Tú U, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - ông Quách Trọng P trình bày:

Ngày 22/8/2020 âm lịch, ông Trần Văn Ú cho ông Lê Hoàng K và bà Trương Hồng L vay tiền 02 lần: Lần thứ nhất vay số tiền 50.000.000 đồng, lần thứ hai vay số tiền 85.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 1%/tháng, thời hạn vay 10 tháng từ khi ký hợp đồng vay. Để đảm bảo cho khoản vay ông K và bà Lợi thế c cho ông Ú một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 587794 do bà Trương Hồng L đứng tên giấy chứng nhận, được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/02/2020, nay đã quá hạn vay nhưng ông K và bà L không trả vốn gốc.

Ngoài ra, ông K và bà L còn mua thức ăn, thuốc thú y và nguyên liệu nuôi trồng thủy sản của ông Ú số tiền 99.181.000 đồng.

Nay ông P yêu cầu Tòa giải quyết buộc ông Lê Hoàng K, bà Trương Hồng L phải có nghĩa vụ trả cho ông Trần Văn Ú tổng số tiền 234.181.000 đồng (trong đó tiền vay 135.000.000 đồng; tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản 99.181.000 đồng).

* Ông Lê Hoàng K trình bày.

Ông K thống nhất có giao dịch mượn tiền và mua bán thức ăn thuốc thủy sản phục vụ nuôi tôm công nghiệp với ông Ú. Tuy nhiên trong tổng số tiền nguyên đơn khởi kiện 234.181.000 đồng, có số tiền vay thế chấp là 50.000.000 đồng, còn lại là tiền thức ăn nuôi tôm, tuy nhiên số tiền thức ăn này đã trả thêm 20.000.000 đồng nhưng phía ông Ú chưa trừ ra vào thời điểm viết biên nhận nợ và hợp đồng thế chấp, nay ông K cũng thống nhất cùng bà L trả cho ông Ú số tiền 214.181.000 đồng, sau khi trừ 20.000.000 đồng đã trả tiền thức ăn nuôi tôm.

Đối với hợp đồng thế chấp ngày 18/6/2020 ông K có ký tên vào biên nhận vay có thể chấp số tiền 50.000.000 đồng. Đối với biên nhận ngày 22/8/2020 âm lịch ông K xác định là chữ ký của ông nhưng ông không có vay số tiền 85.000.000 đồng. Mà số tiền 85.000.000 đồng là tiền thức ăn nuôi tôm ông có nợ nên ký, ngoài ra còn biên nhận tiền thức ăn nuôi tôm số tiền 99.181.000 đồng là ông có nợ và có ký tên là đúng.

* Đối với bà Trương Hồng L:

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà L biết về yêu cầu khởi kiện của ông Ú, nhưng bà L không có ý kiến hay yêu cầu gì và không tham gia hòa giải tại Tòa án.

* Tại phiên tòa:

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định phía bị đơn có chuyển khoản trả số tiền 20.000.000 đồng cho số tiền vay nên thống nhất đối trừ. Còn lại yêu cầu ông K và bà L cùng có trách nhiệm trả.

Người đại diện theo ủy quyền của ông K xác định: Các chữ ký trong các hợp đồng ngày 18/6/2020 và 22/8/2020 và biên nhận chốt tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản là của ông K. Tuy nhiên, số tiền vay thế chấp chỉ có 50.000.000 đồng, 85.000.000 đồng trong biên nhận ký ngày 22/8/2020 là tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản phục vụ nuôi tôm công nghiệp chứ không phải tiền vay, ngoài ra còn khoản tiền mua bán thức ăn thuốc thủy sản 99.181.000 đồng là đúng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà L xác định: Các chữ ký trong các hợp đồng ngày 18/6/2020 và 22/8/2020 và biên nhận chốt tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản là của bà L. Tuy nhiên, việc bà L ký tên không phải thừa nhận số tiền mà xác định bà L chỉ nợ số tiền 50.000.000 đồng vay của ông Ú có thể chấp giấy chứng nhận. Còn số tiền 85.000.000 đồng và 99.181.000 đồng là tiền mua bán thức ăn theo xác nhận của ông K là trách nhiệm của ông K, bà L không có trách nhiệm trả trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại thời điểm mở phiên tòa, chị Nguyễn Thảo N là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Lê Hoàng K và chị Lê Tú U là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trương Hồng L có mặt, phiên tòa tạm dừng và đã thông báo tiếp tục vào ngày 23/02/2024, nhưng người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đều vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Ông Ú khởi kiện yêu cầu ông K, bà L có địa chỉ ấp T, xã T trả lại số tiền vay và tiền mua bán thức ăn nuôi tôm và thuốc thủy sản. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự đây là tranh chấp hợp đồng dân sự cụ thể hợp đồng vay tài sản và mua bán tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi.

[3] Xét nội dung vụ án thấy rằng:

3.1. Đối với số tiền vay 135.000.000 đồng: Tại hợp đồng thế chấp tài sản ngày 18/6/2020 thể hiện bà L, ông K có nhận của ông Ú tổng số tiền 135.000.000 đồng, không thể hiện số tiền 85.000.000 đồng là tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản như đại diện bị đơn trình bày. Đại diện bị đơn cùng thừa nhận chữ ký trong biên nhận này là của ông K, bà L, nhưng cho rằng 85.000.000 đồng không phải là tiền vay lại không đưa ra cơ sở chứng minh và không có biên nhận nào chứng minh bị đơn có trả cho nguyên đơn các khoản tiền nào. Tại phiên tòa các bên thống nhất ông K, bà L có trả cho ông Ú số tiền 20.000.000 đồng nên thống nhất đối trừ là phù hợp. Mặt khác, đại diện bị đơn xin dừng phiên tòa để cung cấp các biên nhận thể hiện bị đơn có trả cho nguyên đơn một số tiền, Hội đồng xét xử đã chấp nhận nhưng đến thời điểm mở phiên tòa đại diện ủy quyền bị đơn vắng mặt không lý do và cũng không cung cấp được tài liệu, chưng cứ nào thể hiện có trả cho nguyên đơn một khoản tiền như đại diện bị đơn trình bày tại tòa. Mặc dù việc vay tiền giữa các bên bị đơn có thể chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, việc thế chấp này các bên thừa nhận chỉ làm tin cho khoản vay chứ không phải đảm bảo khoản vay. Bởi vì việc thế chấp quyền sử dụng đất phải đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định về pháp luật đất đai, do đó việc thế chấp của các bên thực chất là hợp đồng vay tài sản nên Hội đồng xét xử buộc bị đơn trả nợ vay cho nguyên đơn thì nguyên đơn phải trả bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn là phù hợp.

3.2. Đối với số tiền mua bán thức ăn: Tại giấy chốt công nợ và lời thừa nhận của các bên đều xác định ông K có giao dịch mua bán thức ăn nuôi tôm với ông Ú và ông K, bà L cũng có ký biên nhận chốt công nợ số tiền 99.181.000 đồng, bà L cho rằng đây là khoản nợ riêng của ông K là không có cơ sở. Bởi lẻ bà L có ký tên chốt nợ với ông Ú nên xác định đây là khoản nợ chung của ông K và bà L.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử buộc ông khởi, bà L cùng có trách nhiệm trả nợ cho ông Ú số tiền 214.181.000 đồng, trong đó số tiền vay là 115.000.000 đồng, số tiền mua bán thức ăn phục vụ nuôi tôm là 99.181.000 đồng.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông Ú không phải chịu án phí, ông K bà L phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho nguyên đơn. Tuy nhiên, ông K và bà L thuộc trường hợp người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được xét miễn toàn bộ theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 430, Điều 440, Điều 463, khoản 1 Điều 466, 468 của Bộ luật Dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tun xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Ú.

1.1. Buộc ông Lê Hoàng K và bà Trương Hồng L có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Trần Văn Ú số tiền 214.181.000 đồng (hai trăm mười bốn triệu một trăm tám mươi mốt nghìn đồng).

1.2. Buộc ông Trần Văn Ú có nghĩa vụ trả cho ông Lê Hoàng K và bà Trương Hồng L một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Trương Hồng L số CM 587794 do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12 tháng 02 năm 2020.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong đối với tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

2.1. Ông Lê Hoàng K và bà Trương Hồng L được miễn toàn bộ án phí.

2.2. Ông Trần Văn Ú không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho ông Ú số tiền tạm ứng đã nộp 5.855.000 đồng theo Biên lai thu số 0000355 ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và mua bán tài sản số 47/2024/DS-ST

Số hiệu:47/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:23/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về