TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 99/2023/DS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 29 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 187/2023/TLST – DS ngày 18 tháng 3 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 315/2023/QĐXXST - DS, ngày 20 tháng 12 năm 2023 giữa:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn V Địa chỉ: số 2, phường L, quận B, Hà Nội Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Văn Đ (theo quyết định số 2665/QĐ-NHNo-PC ngày 01/12/2022 và giấy ủy quyền lập ngày 15/9/2023) Địa chỉ: Số 108, quốc lộ 14, TT Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước
- Bị đơn: Anh Lê Giao T, sinh năm: 1992 Cư trú tại: Khu Đ, TT Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm: 1966 Cư trú tại: Khu Đ, TT Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước (Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 15-9-2023 của nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn V và trong quá trình xét xử đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trương Văn Đ trình bày:
Ngày 08/6/2022, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt N (sau đây viết tắt là Ngân hàng) có cho anh Lê Giao T vay số tiền 1.100.000.000đ (một tỷ một trăm triệu đồng). Thời hạn vay 12 tháng từ ngày 08/6/2022 cho đến ngày 08/06/2023. Lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng là 9,5%/năm. Lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi suất cho vay trong hạn. Thời hạn trả tiền lãi: 3 tháng 1 lần. Giữa Ngân hàng và anh Lê Giao T có ký hợp đồng tín dụng số 5606- LAV-202204713 ngày 08/6/2022.
Khi vay vốn Ngân hàng, anh Lê Giao T có thế chấp quyền sử dụng đất 393,0m2 thuộc thửa đất số 346, tờ bản đồ số 37 tọa lạc tại khu Đ, TT Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước (đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Phước cấp giấy CNQSDĐ số CS 02352 ký ngày 28/5/2019 đứng tên Nguyễn Thị Kim L) và quyền sử dụng đất 30716,0m2 thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại thôn S, xã Ph, huyện B, tỉnh Bình Phước (đã được UBND huyện B, tỉnh Bình Phước cấp giấy CNQSDĐ số CH 03068 ký ngày 25/2/2019 đứng tên Nguyễn Thị Kim L (đã được chỉnh lý trang 4 ngày 29/3/2019)). Việc thế chấp có làm hợp đồng thế chấp tài sản số A2022-070092006003/HĐTC ngày 08/6/2022 và được đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký đất đai huyện B, tỉnh Bình Phước.
Quá trình thực hiện hợp đồng anh Lê Giao T trả lãi được 2 quý. Sau đó, anh Lê Giao T không trả số tiền gốc và tiền lãi nào khác. Đến thời hạn trả nợ thì anh Lê Giao T không thanh toán tiền vay, Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở nhưng anh Lê Giao T cũng không thực hiện theo thỏa thuận xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Lê Giao T phải thanh toán số tiền vay 1.100.000.000đ, tiền lãi trong hạn tính đến ngày xét xử là 111.693.698đ, tiền lãi quá hạn tính đến ngày xét xử (ngày 29/12/2023) là 13.658.082đ và tiền lãi phát sinh cho đến khi thi hành xong toàn bộ nghĩa vụ đối với Ngân hàng; Trường hợp anh Lê Giao T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm theo quy định.
Bị đơn anh Lê Giao T vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình giải quyết vụ án anh Lê Giao T trình bày: Anh thừa nhận anh có vay của Ngân hàng số tiền 1.100.000.000đ. Thời hạn vay 12 tháng từ ngày 08/6/2022 cho đến ngày 08/06/2023. Lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng là 9,5%/năm. Lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi suất cho vay trong hạn. Thời hạn trả tiền lãi: 3 tháng 1 lần. Giữa anh và Ngân hàng có ký hợp đồng tín dụng số 5606-LAV- 202204713 ngày 08/6/2022. Khi vay vốn Ngân hàng, anh có thế chấp tài sản theo như Ngân hàng đã trình bày. Tài sản thế chấp gồm: quyền sử dụng đất 393,0m2 thuộc thửa đất số 346, tờ bản đồ số 37 tọa lạc tại khu Đ, TT Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước (đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Phước cấp giấy CNQSDĐ số CS 02352 ký ngày 28/5/2019 đứng tên Nguyễn Thị Kim L) và quyền sử dụng đất 30716,0m2 thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại thôn S, xã Ph, huyện B, tỉnh Bình Phước (đã được UBND huyện B, tỉnh Bình Phước cấp giấy CNQSDĐ số CH 03068 ký ngày 25/2/2019 đứng tên Nguyễn Thị Kim L (đã được chỉnh lý trang 4 ngày 29/3/2019)). Khi anh thế chấp tài sản nói trên thì giữa anh và bà Nguyễn Thị Kim L có ký kết với nhau hợp đồng ủy quyền số công chứng 5905, ký ngày 8/6/2022 tại Văn phòng Công chứng Hà Văn Đ.
Từ tháng 1 năm 2023 anh vi phạm về việc trả tiền lãi đã được ghi nhận trong hợp đồng tín dụng. Nay Ngân hàng khởi kiện anh đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về việc trả tiền vay, tiền lãi phát sinh và đồng ý xử lý tài sản thế chấp theo quy định trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Kim L vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị Kim L trình bày: bà là mẹ của anh Lê Giao T. Bà thừa nhận giữa bà và anh Lê Giao T có ký kết hợp đồng ủy quyền số công chứng 5905, ký ngày 8/6/2022 tại Văn phòng Công chứng Hà Văn Đ. Bà hoàn toàn thừa nhận nội dung ủy quyền được ghi nhận trong hợp đồng ủy quyền số công chứng 5905, ký ngày 8/6/2022 tại Văn phòng Công chứng Hà Văn Đ. Việc ủy quyền này là tự nguyện, không bị ép buộc và hiểu rõ nội dung của hợp đồng ủy quyền. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu anh Lê Giao T trả số tiền vay và tiền lãi phát sinh, bà đồng ý việc này. Trường hợp không trả đươc số tiền vay và tiền lãi, bà đồng ý phát mãi, xử lý tài sản thế chấp đã được ghi nhận trong hợp đồng thế chấp tài sản số A2022- 070092006003/HĐTC ngày 08/6/2022 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, HĐXX thực hiện đúng các quy định về tố tụng.
- Ý kiến về giải quyết vụ án:
Đối với yêu cầu của nguyên đơn: Căn cứ vào Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V, buộc bị đơn anh Lê Giao T trả tiền vay 1.100.000.000đ và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận của các bên.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xử lý tài sản bảo đảm khi anh Lê Giao T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Trương Văn Đ (là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn), anh Lê Giao T (là bị đơn) và bà Nguyễn Thị Kim L (là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) vắng mặt nhưng có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Trương Văn Đ, anh Lê Giao T và bà Nguyễn Thị Kim L.
[2] Xét: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V khởi kiện anh Lê Giao T yêu cầu trả số tiền vay và tiền lãi. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xác định quan hệ pháp luật là “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Bị đơn anh Lê Giao T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại khu Đ, TT Đ, huyện B, tỉnh Bình. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định thẩm quyền giải quyết vụ án nói trên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.
[3] Xét giao dịch giữa Ngân hàng và anh Lê Giao T được lập ngày 08 tháng 06 năm 2022. Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017 nên Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết.
[4] Xét nội dung khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V yêu cầu anh Lê Giao T trả số tiền vay 1.100.000.000đ: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V khai nhận Ngân hàng có cho anh Lê Giao T vay số tiền 1.100.000.000đ, vay ngày 08/6/2022, thời hạn vay là 12 tháng. Ngân hàng cung cấp cho Tòa án hợp đồng tín dụng số 5606- LAV-202204713 ngày 08/6/2022 (bút lục số 29 đến số 31) để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng. Anh Lê Giao T thừa nhận lời khai của Ngân hàng (bút lục số 49). Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Như vậy, có đủ cơ sở xác định việc anh Lê Giao T vay tiền của Ngân hàng là có thật.
Trong hợp đồng tín dụng số 5606-LAV-202204713 ngày 08/6/2022 có ghi nhận “Thời hạn duy trì hạn mức: 12 tháng, kể từ ngày ký cho đến hết ngày 08 tháng 6 năm 2023”. Như vậy, thời hạn anh Lê Giao T phải trả tiền vay cho Ngân hàng chậm nhất là ngày 08/6/2023. Khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Do bên vay tài sản vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về việc yêu cầu anh Lê Giao T trả số tiền vay 1.100.000.000đ là có cơ sở.
[5] Xét yêu cầu trả tiền lãi: Nguyên đơn khai nhận anh Lê Giao T đã trả tiền lãi hai kỳ. Hiện nay, anh Lê Giao T còn nợ lại số tiền lãi trong hạn là trong hạn tính đến ngày xét xử là 111.693.698đ, tiền lãi quá hạn tính đến ngày xét xử (ngày 29/12/2023) là 13.658.082đ. Ngân hàng yêu cầu anh Lê Giao T trả khoản tiền lãi nói trên. Xét, theo nội dung của Hợp đồng tín dụng số 5606-LAV- 202204713 ngày 08/6/2022 thì lãi suất cho vay là 9,5%/ năm, thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Do đó, xác định đây là hợp đồng vay có thời hạn và vay có lãi. Tại Điều 7 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định:
“Lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng do các bên thỏa thuận…. Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án áp dụng quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết mà không áp dụng quy định về giới hạn lãi suất của Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi, lãi suất”. Tại Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng nhà nước quy định: “Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định về lãi suất cho vay tối đa tại khoản 2 Điều này”. Xét, các bên tự nguyện thỏa thuận việc tính lãi tại hợp đồng tín dụng là không vi phạm điều cấm của pháp luật về giao dịch tín dụng. Do đó, có giá trị ràng buộc quyền, nghĩa vụ trả lãi của các bên. Do anh Lê Giao T vi phạm nghĩa vụ trả lãi nên căn cứ vào khoản 5 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu trả tiền lãi của Ngân hàng.
[6] Về yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm:
Xét yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của nguyên đơn: Ngân hàng khai nhận khi ký kết hợp đồng tín dụng thì anh Lê Giao T có thế chấp quyền sử dụng đất 393,0m2 thuộc thửa đất số 346, tờ bản đồ số 37 tọa lạc tại khu Đ, TT Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước (đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Phước cấp giấy CNQSDĐ số CS 02352 ký ngày 28/5/2019 đứng tên Nguyễn Thị Kim L) và quyền sử dụng đất 30716,0m2 thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại thôn S, xã Ph, huyện B, tỉnh Bình Phước (đã được UBND huyện B, tỉnh Bình Phước cấp giấy CNQSDĐ số CH 03068 ký ngày 25/2/2019 đứng tên Nguyễn Thị Kim L (đã được chỉnh lý trang 4 ngày 29/3/2019)). Căn cứ vào Điều 298, Điều 317 của Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định Hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.
Tại khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm gồm: “Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Do đó, có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xử lý tài sản bảo đảm khi anh Lê Giao T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
[7] Về các nội dung khác:
[7.1] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tài sản tại chỗ là 3.500.000đ. Tại khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định: “Đương sự phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận”. Do yêu cầu xử lý tài sản của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn anh Lê Giao T phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tài sản tại chỗ. Tại khoản 1 Điều 158 của Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định: “Trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ không phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ thì người phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ theo quyết định của Tòa án phải hoàn trả cho người đã nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ”. Do đó, cần buộc anh Lê Giao T hoàn trả số tiền chi phí xem xét, thẩm định tài sản tại chỗ là 3.500.000đ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V.
[7.2] Về án phí: Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH16 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016 quy định: “Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.”. Do đó, bị đơn anh Lê Giao T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận [7.3] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 299, Điều 320, Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.
- Căn cứ vào Điều 7 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao 1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn V về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản;
Buộc bị đơn anh Lê Giao T trả cho nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn V số tiền vay là 1.100.000.000đ, tiền lãi trong hạn là 111.693.698đ và tiền lãi quá hạn tính đến ngày xét xử (ngày 29/12/2023) là 13.658.082đ. Tổng cộng tiền gốc và tiền lãi anh Lê Giao T phải trả là 1.225.351.780đ.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bị đơn anh Lê Giao T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 5606-LAV-202204713 ngày 08/6/2022 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Sau khi bị đơn anh Lê Giao T thanh toán xong nợ thì Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam có trách nhiệm trả lại tài sản mà anh Lê Giao T đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp tài sản số A2022- 070092006003/HĐTC ngày 08/6/2022.
Nếu bị đơn anh Lê Giao T không trả hoặc trả không đủ thì Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp được ghi nhận trong hợp đồng thế chấp tài sản số A2022-070092006003/HĐTC ngày 08/6/2022 để thu hồi nợ.
2/ Về chi phí tố tụng: Buộc bị đơn anh Lê Giao T phải hoàn trả cho nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V số tiền chi phí xem xét, thẩm định tài sản tại chỗ là 3.500.000đ.
3/ Về án phí: Buộc bị đơn anh Lê Giao T phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 48.760.553 đồng.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bình Phước hoàn trả cho nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V số tiền tạm ứng án phí là 35.947.298đồng theo biên lai thu tiền số 0001274 lập ngày 18/10/2023.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
4/ Quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 99/2023/DS-ST
Số hiệu: | 99/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về