Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 92/2020/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 92/2020/DS-ST NGÀY 01/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 400/2019/TLST-DS ngày 03 tháng 12 năm 2019 về “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXXST - DS ngày 22 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà L, sinh năm 1956 Địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh G Người đại diện theo ủy quyền: Chị T, sinh năm 1983; Địa chỉ: 244/2 tổ 8, ấp P, xã H, huyện T, tỉnh G.

2. Bị đơn: Anh P, sinh năm 1979 Chị H, sin năm 1986 Cùng địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh G.

Chị T có mặt; anh P, chị H vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 05 tháng 11 năm 2019 của bà L và quá trình giải quyết vụ án chị T là người đại diện của nguyên đơn trình bày:

Ngày 14/10/2016, bà L có cho anh P và chị H vay số tiền 130.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận miệng là 3%/tháng, thời hạn vay là 03 tháng. Anh P và chị H có viết biên nhận cho bà L. Tuy nhiên từ khi vay tiền đến nay thì anh P và chị H không trả tiền lãi cũng như tiền vốn gốc cho bà L. Bà L đã nhiền lần yêu cầu anh P và chị H trả tiền nhưng bị đơn cứ hẹn mà không thực hiện.

Nay bà L yêu cầu anh P và chị H trả nợ với số tiền vốn là 130.000.000 đồng và tiền lãi từ ngày vay đến khi ngày xét xử với lãi suất 0,83%/tháng.

- Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh P và chị H biết để tham gia phiên tòa theo quy định nhưng anh P và chị H vẫn không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng không cung cấp chứng cứ hoặc có ý kiến bằng văn bản phản hồi về việc bà L khởi kiện, nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ một phần, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn anh P và chị H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh P và chị H là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Bà L yêu cầu anh P và chị H trả số tiền vay còn nợ, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh G, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Bà L khởi kiện yêu cầu anh P và chị H trả tiền nợ đã vay là 130.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của bà L là giấy biên nhận do bà L cung cấp có anh P và chị H ký tên xác nhận nợ. Tại phiên tòa, người đại diện ủy quyền của nguyên đơn trình bày việc vay tiền được xác lập trực tiếp giữa bà L và chị H, biên nhận do chị H viết sau đó đem về cho anh P ký tên và đưa lại cho bà L. Do không xác định được chữ ký trong biên nhận có phải là chữ ký của anh P hay không nên bà L khởi kiện chị H là người vay và yêu cầu anh P chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do chị H thực hiện vì anh P với chị H là vợ chồng. Có đủ cơ sở xác định giữa bà L với chị H đã xác lập hợp đồng vay tài sản theo quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự.

[2.2] Quá trình thu thập chứng cứ, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị H tuy nhiên chị H không đến tham dự phiên tòa và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của bà L. Căn cứ Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự, chị H phải chịu hậu quả của việc không chứng minh. Do đó Hội đồng xét xử xác định chị H còn nợ bà L số tiền 130.000.000 đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự thì: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Xét thấy chị H đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà L và ý kiến của Kiểm sát viên, buộc chị H trả cho bà L số tiền vốn là 130.000.000 đồng.

[2.3] Xét yêu cầu trả tiền lãi: Bà L khai cho vay với lãi suất thỏa thuận là 3%/tháng, tuy nhiên bà L không có chứng cứ để chứng minh. Tại phiên tòa, chị T rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu tính lãi từ ngày 14/10/2016 đến ngày 13/01/2017. Việc rút một phần yêu cầu của nguyên đơn là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ đối với phần yêu cầu này. Chị T yêu cầu tính lãi từ ngày 14/01/2017 đến ngày xét xử với lãi suất 0,83%/tháng, số tiền là 43.334.000 đồng. Theo quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự thì: “Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả”. Do đó, chị T yêu cầu chị H trả tiền lãi chậm trả là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 466, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.4] Về trách nhiệm trả nợ: Bà L yêu cầu chị H và anh P liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà L. Xét thấy bà L xác định anh P không tham gia việc vay tiền nên không làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ của anh P đối với hợp đồng vay. Bà L không chứng minh được số tiền chị H vay là để sử dụng chung với anh P, giá trị khoản vay này là lớn so với nhu cầu thiết yếu của một gia đình thông thường nên không có cơ sở xác định khoản nợ này là nợ chung của vợ chồng để buộc anh P có trách nhiệm liên đới đối với khoản vay này theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất với ý kiến của Kiểm sát viên, không chấp nhận yêu cầu của bà L yêu cầu anh P cùng chịu trách nhiệm liên đới với chị H trả nợ.

[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[4] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà L. Buộc chị H trả cho bà L số tiền nợ gốc là 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng) và tiền lãi chậm trả là 43.334.000 đồng (Bốn mươi ba triệu ba trăm ba mươi bốn nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà L cho đến khi thi hành án xong, chị H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Không chấp nhận yêu cầu của bà L yêu cầu anh P cùng chịu trách nhiệm liên đối với chị H trả nợ.

3. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà L đối với yêu cầu tính lãi từ ngày 14/10/2016 đến ngày 13/01/2017.

4. Về án phí:

Chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 8.666.700 đồng Bà L được miễn tiền tạm ứng án phí do là người cao tuổi.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 92/2020/DS-ST

Số hiệu:92/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:01/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về