Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 86/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BT, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 86/2023/DS-ST NGÀY 03/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 110/2023/TLST-DS ngày 07 tháng 4 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2023/QĐXXST-DS ngày 11/7/2023 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngọc M, sinh năm 1952;

Địa chỉ: Số C Khu phố H, Phường T, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1994 Địa chỉ: Số C ấp MAC, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

* Bị đơn: Ông Lê Trung K, sinh năm 1961;

Địa chỉ: số D, khu phố B, phường N, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

Nguyễn Thị T, sinh năm 1962;

Đia chỉ: số C, khu phố K, phường T, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

(Tất cả vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc M, ông Nguyễn Văn Đ trình bày:

Do có mối quan hệ quen biết, vợ chồng bà T và ông K có nhu cầu vay vốn để kinh doanh mua bán và mua xe Container để vận chuyển hàng hóa nên bà M có cho bà T với ông K vay nhiều lần với tổng cộng số tiền là 600.000.000đồng. Ngày 21/02/2023, bà T và ông K có chốt nợ và viết biên nhận ký tên với số tiền còn thiếu bà M tổng cộng 600.000.000đồng. Bà T và ông K hứa trong vòng 01 tháng kề từ ngày 21/02/2023 đến 21/3/2023 sẽ hoàn trả lại cho bà M số tiền trên. Đến ngày 21/3/2023, bà T với ông K không thực hiện trả nợ mặc dù bà M yêu cầu nhiều lần. Do vậy, bà M khởi kiện yêu cầu bà T và ông K có trách nhiệm liên đới trả cho bà M số tiền nợ gốc là 600.000.000 đồng, bà M không yêu cầu tính lãi đối với số tiền trên.

Bị đơn bà Nguyễn Thị T và ông Lê Trung K không đến Tòa án hòa giải nhưng ngày 10/7/2023, Tòa án nhận được đơn yêu cầu Tòa án giải quyết mặt của bà T và ông K. Theo nội dung đơn yêu cầu bà T, ông K đồng ý liên đới trả cho bà M số tiền 600.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT phát biểu quan điểm về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng từ khi thụ lý đến xét xử. Đối với người tham gia tố tụng, nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của đương sự, căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Xét đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc M với bị đơn bà Nguyễn Thị T, ông Lê Trung K, do bị đơn cư trú tại thành phố BT nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố BT theo quy định tại Điều 26 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên hòa giải cho bà Nguyễn Thị T, ông Lê Trung K nhiều lần nhưng bà T, ông K vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể hòa giải được. Ngày 10/7/2023, Tòa án nhận được đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt của bà T, ông K. Ngày 02/8/2023, Tòa án được đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt của đại diện theo ủy quyền của ông Đạt. Do đó căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố BT tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà M, bà T và ông K là đúng quy định pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy, thực tế bà T và ông K có vay tiền của bà M nhiều lần, cụ thể theo biên nhận ngày 13/12/2021 bà T và ông K có ký tên biên nhận mượn của bà M số tiền 250.000.000đồng. Ngày 21/02/2023, bà T và ông K có viết biên nhận mượn 600.000.000đồng của bà M và hứa trong 01 tháng sẽ giải quyết. Do bà T, ông K không trả nên bà M khởi kiện yêu cầu bà T, ông K trả số tiền 600.000.000đồng là có căn cứ. Căn cứ theo đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt của bà T và ông K, bà T và ông K thừa nhận có mượn tiền của bà Khanh và đồng ý liên đới trả cho bà Khanh số tiền 600.000.000đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, bà T và ông K thừa nhận có mượn 600.000.000đồng của bà M và đồng ý liên đới trách nhiệm trả 600.000.000đồng cho bà M nên Hội đồng xét xử ghi nhận để buộc bà T và ông K thực hiện.

Ghi nhận bà M không yêu cầu bà T, ông K trả tiền lãi.

[4] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch bị đơn phải chịu theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 463, 466 và 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 26, 35 và Điều 147 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc M về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T và ông Lê Trung K trả tiền, cụ thể tuyên:

Buộc bà Nguyễn Thị T và ông Lê Trung K có trách nhiệm liên đới trả cho bà Lê Thị Ngọc M tổng cộng số tiền 600.000.000(Sáu trăm triệu) đồng. Ghi nhận bà Lê Thị Ngọc M không yêu cầu bà Nguyễn Thị T và ông Lê Trung K liên đới trả tiền lãi.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền chưa được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 36.000.000(Ba mươi sáu triệu) đồng, bà Nguyễn Thị T và ông Lê Trung K có trách nhiệm liên đới nộp, nhưng do bà Nguyễn Thị T và ông Lê Trung K là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 86/2023/DS-ST

Số hiệu:86/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về