Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 82/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 82/2021/DS-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 497/2020/TLST-DS ngày 22 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2021/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (VBank);

Địa chỉ: Số A L, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô H; Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ T; Chức vụ: Phó Giám đốc Khối pháp chế và kiểm soát tuân thủ, V Bank hội sở; Theo văn bản ủy quyền lập ngày 02-3-2020;

Người được ủy quyền lại: Chị Quan Thị Cẩm N; Chức vụ: Cán bộ xử lý nợ; cư trú tại: Tầng M, số X Cao Thắng, Phường H, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; Theo văn bản ủy quyền lập ngày 08-9-2020. (Xin vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Trần Hoàng K, sinh năm 1991; cư trú tại: Ấp T, xã TP, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình hòa giải tại Tòa án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, chị Quan Thị Cẩm N trình bày:

Anh Trần Hoàng K có vay của Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (VBank) – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh – Phòng Giao dịch B số tiền 317.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng để mua xe con nhãn hiệu Hyundai theo Hợp đồng tín dụng số 1332***2/BTH/HĐTD ngày 09-5-2017 và đã được giải ngân theo khế ước nhận nợ. Để đảm bảo cho khoản vay, anh K thế chấp tài sản là 01 xe ô tô con nhãn hiệu Hyundai số khung M**A741CAHM2***57, số máy G**GM296**6, biển số 63A-06*.*8, theo giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 013**4 do công an tỉnh Tiền Giang cấp ngày 05-5-2017 do anh K đứng tên. Giấy chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án, số đăng ký 1248075850 có hiệu lực đăng ký từ ngày 09-5- 2017 tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, anh K đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ kể từ ngày 09- 01-2019, tính đến ngày 07-6-2021 thì anh K thanh toán cho ngân hàng được 213.978.064 đồng, trong đó nợ gốc là 163.804.000 đồng và nợ lãi là 50.174.064 đồng và còn nợ lại 241.037.386 đồng, trong đó nợ gốc là 153.196.000 đồng và nợ lãi 87.841.386 đồng.

Ngoài ra, anh K còn nợ khoản tiền thẻ tín dụng theo giấy đề nghị vay vốn có tài sản đảm bảo, đăng ký phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế không tài sản bảo đảm số 148-P-6***9 ký ngày 05-5-2017, hạn mức cấp tín dụng là 20.000.000 đồng, dư nợ tính đến ngày 07-6-2021 là 84.937.171 đồng.

Như vậy, phía anh K đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, ngân hàng yêu cầu anh K phải thanh toán các khoản nợ tính đến ngày 07-6-2021 là 325.974.503 đồng. Đồng thời anh K phải tiếp tục chịu lãi theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp anh K không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì ngân hàng có quyền yêu cầu kê biên tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Bị đơn, anh Trần Hoàng K: Dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ngân hàng Thương mại Cổ phần V khởi kiện yêu cầu anh Trần Hoàng K phải trả tiền vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết giữa hai bên, anh K vay tiền nhằm vào mục đích mua xe con, không có đăng ký kinh doanh. Căn cứ vào Điều 463 của Bộ luật Dân sự, Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”. Bị đơn cư trú tại ấp T, xã TP, huyện C nên thẩm quyền giải quyết là của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn, anh Trần Hoàng K đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh K.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

Ngày 09-5-2017, giữa anh Trần Hoàng K và Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (VBank) – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh – Phòng Giao dịch B có ký Hợp đồng tín dụng số 1332***2/BTH/HĐTD. Theo đó, anh K vay của ngân hàng số tiền 317.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng để mua xe con nhãn hiệu Hyundai , trả lãi và vốn định kỳ vào ngày 09 hàng tháng, bắt đầu từ tháng 6- 2017. Anh K có nghĩa vụ trả tiền nợ gốc hàng tháng là 5.284.000 đồng kèm tiền lãi theo quy định tại thời điểm trả nợ, trả làm 60 kỳ. Sau khi vay, tính đến ngày 07-6-2021 anh K chỉ trả được nợ gốc là 163.804.000 đồng và nợ lãi là 50.174.064 đồng là vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên ngân hàng kiện đòi là có căn cứ. Để đảm bảo cho khoản vay, anh K đã thế chấp 01 xe ô tô con nhãn hiệu Hyundai số khung M**A741CAHM2***57, số máy G**GM296**6, biển số 63A- 06*.*8, theo giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 013**4 do công an tỉnh Tiền Giang cấp ngày 05-5-2017 do anh K đứng tên. Giấy chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án, số đăng ký 1248075850 có hiệu lực đăng ký từ ngày 09-5-2017 tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế, trường hợp anh K không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Ngoài khoản vay trên, anh K có lập giấy đề nghị vay vốn có tài sản đảm bảo, đăng ký phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế không tài sản bảo đảm ký ngày 27-4-2017, hạn mức cấp tín dụng là 20.000.000 đồng, dư nợ tạm tính đến ngày 07-6-2021 là 84.937.171 đồng chưa trả nên phải có nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng.

Phía anh K không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự mình từ bỏ nghĩa vụ chứng minh nên phải chịu hậu quả theo quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận nên ngân hàng không phải chịu án phí, được nhận lại tiền tạm ứng án phí. Anh Trần Hoàng K chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự ; Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần V. Buộc anh Trần Hoàng K phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền nợ gốc là 153.196.000 đồng, nợ lãi là 87.841.386 đồng, nợ thẻ tín dụng là 84.937.171 đồng, tổng cộng là 325.974.503 (Ba trăm hai mươi lăm triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn năm trăm linh ba) đồng. Kể từ ngày 07-6-2021, nếu anh K chậm trả số tiền nợ trên thì còn phải trả thêm các khoản lãi, phí phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 1332***2/BTH/HĐTD ngày 09-8-2017 được ký giữa anh Trần Hoàng K và Ngân hàng Thương mại Cổ phần V (VBank) – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh – Phòng Giao dịch B.

Trường hợp anh K không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần V có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là 01 xe ô tô con nhãn hiệu Hyundai số khung M**A741CAHM2***57, số máy G**GM296**6, biển số 63A-06*.*8, theo giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 013**4 do công an tỉnh Tiền Giang cấp ngày 05-5-2017 do anh Trần Hoàng K đứng tên.

2. Về án phí:

Buộc anh Trần Hoàng K phải chịu 16.298.700 (Mười sáu triệu hai trăm chín mươi tám nghìn bảy trăm) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần V được nhận lại 6.480.500 (Sáu triệu bốn trăm tám mươi nghìn năm trăm) đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006029 ngày 22-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 82/2021/DS-ST

Số hiệu:82/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về