TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 70/2021/DS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 290/2020/TLST-DS ngày 02/11/2020 về việc: “Tranh chấp hợp dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2021/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 49a/2021/QĐST - DS ngày 07 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Đoàn Thị Bích P, sinh năm 1980. Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Bà Trương Thị Quỳnh N, sinh năm 1994, địa chỉ: Số 671 H, tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Theo văn bản ủy quyền lập ngày 27/7/2020.
2. Bị đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đoàn L, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
(Bà N có mặt; bà T, ông L vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bà Trương Thị Quỳnh N trình bày:
Ông Đoàn L là chú ruột của bà Đoàn Thị Bích P. Năm 2018 ông L vay bà P số tiền là 159.200.000đồng (một trăm năm mươi chín triệu hai trăm nghìn đồng), lãi suất thỏa thuận miệng là 1%/tháng, trả lãi hàng tháng, hẹn ngày 30/3/2020 sẽ trả nợ. Năm 2019, ông Đoàn L và vợ là bà phát sinh mâu thuẫn dẫn đến ly hôn thì bà T đứng ra nhận nợ thay ông Đoàn L, bà T hẹn trong năm 2019 sẽ có trách nhiệm trả cho bà P hết số tiền 159.200.000đồng, lãi suất thỏa thuận miệng là 1%/tháng, trả lãi hàng tháng. Bà T viết cho bà P một giấy nhận nợ chuyển giao nghĩa vụ trả nợ từ ông L sang bà Trần Thị T (tên gọi khác là Trần Thị Mộng T1) vào ngày 27/3/2019 có chữ ký xác nhận nợ của bà T ông L (Đoàn Minh L).
Tuy nhiên quá hẹn trả nợ như đã cam kết thỏa thuận nhưng bà T không thực hiện việc trả tiền cho bà P, mặc dù bà P đã rất nhiều lần yêu cầu nhưng bà T luôn khất lần, lẩn tránh, không có thiện chí trả nợ cho bà P như cam kết theo giấy nhận trả nợ lập ngày 27/3/2019.
Đến nay các bên không thể tự thương lượng thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp, do đó bà P đã khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà giải quyết buộc bà T phải trả cho bà P số tiền là 159.200.000 đồng (một trăm năm mươi chín triệu hai trăm ngàn đồng). Ngoài ra, bà P yêu cầu bà T trả tiền lãi phát sinh cho bà P tính từ ngày chuyển giao nghĩa vụ là ngày 27/3/2019 đến ngày 23/9/2021 là 29 tháng 26 ngày với mức lãi suất là 0.83%/tháng, cụ thể:
159.200.000 x 0.83% x 29 tháng 26 ngày với số tiền là 39.420.000đồng. Tổng số tiền bà P yêu cầu bà T phải trả cho bà P là 198.620.000 đồng (một trăm chín mươi tám triệu sáu trăm hai mươi ngàn đồng). Ngoài ra, bà P không có ý kiến, yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai bị đơn bà Trần Thị T trình bày:
Bà không có quan hệ gì với bà Đoàn Thị Bích P, ông Đoàn L trước đây là chồng bà, hiện tại bà và ông Đoàn L đã ly hôn không có bất cứ mối quan hệ nào với nhau. Giữa bà và bà P không có bất cứ quan hệ vay mượn nào, bà cũng không vay tiền của bà P. Bà chưa bao giờ đứng ra nhận nợ thay hay bảo lãnh gì cho ông Đoàn L. Bà không biết việc ông L vay tiền của bà P, trước đây ông Đoàn L thường đánh bạc nên theo bà ông L vay tiền để sử dụng vào mục đích cá nhân không phải mục đích sinh hoạt gia đình. Chữ ký, chữ viết trong giấy lập ngày 27/3/2019 không phải là của bà. Bà tên là Trần Thị T chứ không phải tên Trần Thị Mộng T1. Nội dung trong giấy lập ngày 27/3/2019 thể hiện nhận nợ số tiền 159.200.000đồng chứ không thể hiện chủ nợ là ai nên không thể nói rằng bà T1 nhận nợ thay cho ông L để trả cho bà P, vì trong giấy không thể hiện tên người chủ nợ là bà P nên không có giá trị. Chữ ký, chữ viết trong giấy lập ngày 27/3/2019 không phải của bà, bà không liên quan và không yêu cầu giám định bất kỳ tài liệu gì.
Nay bà Đoàn Thị Bích P khởi kiện yêu cầu bà trả nợ thay ông Đoàn L số tiền gốc là 159.200.000đồng và tiền lãi thì bà không đồng ý.
Hiện nay ông L vẫn đang ở địa phương nên bà đề nghị Tòa án xem xét lại tư cách tố tụng ai là bị đơn trong vụ án để giải quyết theo quy định của pháp luật, bà không đồng ý trả cho bà P bất cứ khoản tiền nào, bà không liên quan gì đến vụ án nên không yêu cầu giám định chữ ký và chữ viết giấy vay tiền lập ngày 27/3/2019 hay bất cứ tài liệu gì. Ngoài ra, bà T không có ý kiến, yêu cầu gì khác.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đoàn L trình bày:
Vào cuối năm 2018, ông có vay của bà Đoàn Thị Bích P số tiền 159.200.000đồng các bên có viết giấy tờ với nhau đến nay ông vẫn chưa trả được cho bà P. Nay bà P khởi kiện bà Trần Thị T ông có ý kiến như sau: Bà Trần Thị T trước đây là vợ ông, bà Trần Thị T chưa bao giờ viết giấy nhận nợ thay cho ông. Số tiền ông vay mục đích để tiêu xài cá nhân chứ không phục vụ sinh hoạt gia đình. Chữ ký, chữ viết trong giấy ngày 27/3/2019 và tên người nhận nợ không phải tên của bà Trần Thị T mà là tên bà Trần Thị Mộng T1. Bà Trần Thị Mộng T1 là bạn ông, hiện nay bà T1 đã bỏ đi đâu ông không biết. Ông vay tiền của bà P nên ông sẽ trả cho bà P mà không cần bất cứ ai trả thay, ông không đồng ý bà P khởi kiện bà Trần Thị T. Ngoài ra ông không có ý kiến, yêu cầu gì khác.
Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn bà T, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông L đều vắng mặt. Tại phiên tòa bà T, ông L vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn bà Trần Thị T (tên gọi khác là Trần Thị Mộng T1) và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đoàn L (Đoàn Minh L) không đến tòa án làm việc, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải là chưa thực hiện đúng và đầy đủ về quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ, kết luận giám định số 508/GĐ-PC09 ngày 16/6/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đoàn Thị Bích P buộc bị đơn bà Trần Thị T (tên thường gọi là Trần Thị Mộng T1) có nghĩa vụ trả cho bà Đoàn Thị Bích P số nợ gốc 159.200.000đồng và nợ lãi 39.420.000đồng.
Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa, bị đơn bà Trần Thị T (tên gọi khác Trần Thị Mộng T1), người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đoàn L (Đoàn Minh L) vắng mặt đến lần thứ 02 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; Áp dụng Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn bà T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đoàn L là phù hợp.
[2] Về quan hệ tranh chấp:
Bà Đoàn Thị Bích P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Trần Thị T (tên gọi khác Trần Thị Mộng T1) phải có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc là 159.200.000đ và tiền lãi suất theo quy định của pháp luật theo giấy lập ngày 27/3/2019 nên căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật là:“Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” giữa nguyên đơn bà Đoàn Thị Bích P với bị đơn bà Trần Thị T (Trần Thị Mộng T1), người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Đoàn L (Đoàn Minh L) vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
[3] Về nội dung:
3.1 Đối với yêu cầu trả nợ gốc:
Xuất phát từ mối quan hệ chú, thím và cháu ruột nên vào năm 2018 bà Đoàn Thị Bích P là cháu của ông Đoàn L đã xác lập giao dịch dân sự vay tài sản theo đó bà P cho ông Đoàn L vay số tiền 159.200.000đồng khi đến hạn ông Đoàn L không trả được cho bà P nên ngày 22/01/2019 ông Đoàn L đã viết giấy với bà P với nội dung: “chú Lâu hứa trả nợ số tiền trên 159.200.000đ thời gian hẹn là 30/3/2020 là trả đủ nếu sai hẹn sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật”, phía góc bên phải của giấy này có chữ ký, chữ viết của ông Đoàn L, như vậy việc vay mượn tiền của ông Đoàn L với bà P là có trên thực tế vào ngày 27/3/2019, giữa bà T, bà P cùng ông Đoàn L lập giấy có nội dung: “ Thím T1 nhận nợ cho chú Lâu số tiền là: 159.200.000đ (một trăm năm mươi chín triệu hai trăm nghìn đồng hẹn trong năm nay Thím trả lần hết”, phía dưới góc bên phải của giấy này có chữ ký và chữ viết của bà Trần Thị Mộng T1 và chữ ký và chữ viết của ông Đoàn Minh L, bản chính giấy lập ngày 27/3/2019 do bà Đoàn Thị Bích P cất giữ.
Như vậy, khoản nợ 159.200.000đồng giữa bà P và ông Đoàn L được xác lập vào năm 2018, giấy hẹn trả nợ giữa bà P với ông Đoàn L và giấy nhận nợ thay cho ông L lập ngày 27/3/2019 giữa bà T, ông L và bà P. Mặt khác bà T và ông L kết hôn ngày 08/3/2004, trong thời gian này bà T và ông L còn tồn tại quan hệ hôn nhân là vợ chồng. Đến tháng 1/2020 ông L, bà T ly hôn theo quyết định của Tòa án như vậy tại thời điểm xác lập giấy chuyển giao nghĩa vụ ngày 27/3/2019 bà Trần Thị T và ông Đoàn L vẫn đang là vợ chồng nên việc bà T đứng ra nhận trả nợ thay cho ông L là phù hợp. Đến tháng 01/2020 thì bà T, ông L ly hôn theo quyết định số 07/2020/QĐST –HNGĐ ngày 10/01/2020 của Tòa án huyện Lâm Hà thì về nợ chung các đương sự xác định tự thỏa thuận giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án bà T khẳng định không biết khoản vay này của ông L, còn ông L cũng xác định đây là khoản vay riêng của ông, ông vay để tiêu xài cá nhân, không sử dụng khoản vay này phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình nên xác định đây là khoản nợ riêng của ông Đoàn L chưa trả cho bà P là phù hợp.
Tại giấy lập ngày 27/3/2019 (bản chính) thể hiện nội dung “Thím T1 nhận nợ cho chú Lâu số tiền là: 159.200.000đ (một trăm năm mươi chín triệu hai trăm nghìn đồng) hẹn trong năm nay Thím trả lần hết”, ngoài ra giấy này còn thể hiện chữ ký và chữ viết của bà Trần Thị Mộng T1, ông Đoàn Minh L. Việc bà T cho rằng chữ ký, chữ viết trong giấy ngày 27/3/2019 không phải là chữ ký, chữ viết của bà. Còn ông L cho rằng chữ ký, chữ viết trong giấy ngày 27/3/2019 và tên người nhận nợ không phải là tên của bà T mà là tên của bà T1, bà Trần Thị Mộng T1 là bạn ông. Hiện nay bà T1 đã bỏ đi đâu ông không biết.
Tuy nhiên tại kết luận giám định số 508/GĐ-PC09 ngày 16/06/2021 đã kết luận: “Chữ ký, chữ viết ghi họ tên Trần Thị Mộng T1 trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết ghi họ tên Trần Thị T trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 là do cùng một người ký và viết ra”;
Tại thời điểm lập giấy ngày 27/3/2019 bà Trần Thị T (Trần Thị Mộng T1) có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên phải chịu trách nhiệm về giao dịch do chị Trần Thị T ( tên gọi khác Trần Thị Mộng T1) xác lập.
Theo quy định tại Điều 370 Bộ luật dân sự năm 2015 thì:
1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thay thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ.
Do vậy bà P khởi kiện yêu cầu bà T trả số tiền gốc 159.200.000đồng là có căn cứ chấp nhận như đã phân tích ở trên.
3.2 Đối với yêu cầu trả tiền lãi:
Bà Đoàn Thị Bích P yêu cầu bà Trần Thị T (bà Trần Thị Mộng T1) phải trả tiền lãi chậm trả đối với số tiền gốc là 159.200.000đ tính từ ngày 27/3/2019 đến ngày 23/9/2021 theo mức lãi suất là 0,83%/tháng.
Về thời điểm bà P yêu cầu tính lãi suất chậm trả bắt đầu từ ngày 27/3/2019 là phù hợp, bởi lẽ, ngày 27/3/2019 là ngày đã được chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Trần Thị T (Trần Thị Mộng T1) theo giấy nhận nợ lập giấy ngày 27/3/2019 có chữ ký và chữ viết của bà Trần Thị T, ông Đoàn L có sự đồng ý của bà P (giấy nhận nợ lập ngày 27/3/2019 do bà P giữ).
Về mức lãi suất, bà P yêu cầu là 0,83% tháng là phù hợp bởi trong giấy nhận nợ lập ngày 27/3/2019 mà bà P xuất trình cho Tòa án đều không thể hiện các bên có thỏa thuận về lãi suất. Mặt khác, khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”.
Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”.
Xét thấy tại phiên tòa hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu mức lãi suất là 0,83%/tháng tính từ ngày 27/3/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm vụ án đối với số tiền gốc là 159.200.000đồng là phù hợp.
Do vậy, cần áp dụng mức lãi suất 10%/năm (0,83%/tháng) đối với số tiền gốc là 159.200.000đ, tính từ ngày ngày 27/3/2019 đến ngày 23/9/2021 là hoàn toàn phù hợp. Lãi suất được tính cụ thể như sau: 159.200.000đ x 0,83%/tháng x (29 tháng, 26 ngày) = 39.454.178đồng nhưng nguyên đơn chỉ yêu cầu 39.420.000đồng nên chấp nhận.
Từ những phân tích, nhận định nêu trên, cần buộc vợ bà Trần Thị T (Trần Thị Mộng T1) phải trả cho bà Đoàn Thị Bích P số tiền gốc là 159.200.000đồng, tiền lãi trả là 39.420.000đồng. Tổng cộng cả tiền gốc và tiền lãi là 198.620.000đồng.
[4] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn đã nộp 5.680.000đồng tiền chi giám định chữ ký, chữ viết, đã được quyết toán xong. Xét thấy việc giám định là cần thiết cho việc giải quyết vụ án, do yêu cầu khởi kiện của bà P được chấp nhận nên buộc bà T phải chịu toàn bộ chi phí giám định là 5.680.000đồng. Do vậy, buộc bà T phải thanh toán lại cho bà P 5.680.000đồng tiền chi phí giám định.
[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc bị đơn bà T phải có nghĩa vụ nộp án phí dân sự theo quy định của pháp luật là: 198.620.000đ x 5% = 9.931.000đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 147; Điều 217; Điều 161; Điều 162; khoản 2 Điều 266; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 370; khoản 2 Điểu 357; Điều 463; Điều 466; khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ điều 26 Luật thi hành án dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Đoàn Thị Bích P về việc: “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” với bị đơn bà Trần Thị T.
Buộc bà Trần Thị T phải trả cho bà Đoàn Thị Bích P số tiền gốc số tiền gốc là 159.200.000đồng, tiền lãi trả là 39.420.000đồng. Tổng cộng cả tiền gốc và tiền lãi là 198.620.000đồng (một trăm chín mươi tám triệu, sáu trăm hai mươi ngàn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Trần Thị T phải thanh toán cho bà Đoàn Thị Bích P 5.680.000đồng (năm triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng) tiền chi phí giám định.
3. Về án phí: Buộc bị đơn bà Trần Thị T phải nộp 9.931.000đồng(chín triệu, chín trăm ba mươi mốt ngàn đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà Đoàn Thị Bích P 4.641.000đ (năm triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0014820 ngày 21/10/2020 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 70/2021/DS-ST
Số hiệu: | 70/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về