Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 62/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 62/2021/DS-ST NGÀY 07/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 272/2021/TLST-DS ngày 10 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2021/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 119/2021/QĐST-DS ngày 22 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự;

1. Nguyên đơn: Bà Bùi Thị B, sinh năm 1955 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố 6, phường T, thị xã T, tỉnh B.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 4, phường T, thị xã H, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên Tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Bùi Thị B trình bày:

Ngày 09/02/2021, bà Bùi Thị B cho bà Nguyễn Thị Th mượn 139.600.000 đồng để bà Th đáo hạn vay ngân hàng. Hai bên có lập một giấy mượn tiền, không thoả thuận lãi suất, bà Th hứa bán nhà xong sẽ trả số tiền trên cho bà nhưng đến nay bà Th không thực hiện như thoả thuận. Do đó, nay bà B yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Th trả cho bà B số tiền 139.600.000đ (một trăm ba mươi chín triệu sáu trăm nghìn đồng), không yêu cầu tính lãi suất.

Về phía bị đơn,Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà Nguyễn Thị Th theo quy định của pháp luật nhưng bà Th luôn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, không có tài liệu, chứng cứ, lời khai của bị đơn. Tòa án căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các căn cứ của pháp luật để xem xét giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án phù hợp với quy định của pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật của đương sự: Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn vắng mặt lần hai tại phiên tòa không có lý do nên Tòa tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ các Điều 463, Điều 466 và khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Th phải trả cho bà Bùi Thị B số tiền 139.600.000đ (một trăm ba mươi chín triệu sáu trăm nghìn đồng).

Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án dân sự được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào trình bày của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị B thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại khu phố 4, phường T, thị xã T, tỉnh B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà Nguyễn Thị Th nhưng tại phiên tòa hôm nay bà Th vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Th.

[2] Về nội dung của vụ án và yêu cầu của nguyên đơn:

Bà Bùi Thị B khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Th có nghĩa vụ trả tiền nợ vay cho bà 139.600.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, bà B xuất trình chứng cứ giấy mượn tiền ngày 09/02/2021, có chữ ký của người mượn tiền là bà Nguyễn Thị Th, trong giấy mượn tiền hai bên không thoả thuận lãi suất và thời hạn trả nợ, bà Th hứa bán nhà xong sẽ trả số tiền trên cho bà B nhưng đến nay bà Th không thực hiện như đã thoả thuận nên dẫn đến phát sinh tranh chấp. Tại phiên tòa, bà B vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Xét thấy, sau khi thụ lý vụ án và trong quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà Th nhưng bà Th vẫn không có mặt tại Tòa và cũng không có ý kiến liên quan đến yêu cầu khởi kiện, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp hoặc cung cấp tài liệu chứng cứ gì chứng minh đã trả một phần hay toàn bộ số tiền vay. Căn cứ vào khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự có thể khẳng định về chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp là hợp lệ. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên được chấp nhận.

[3] Xét thấy, hợp đồng vay tài sản giữa bà Bùi Thị B và bà Nguyễn Thị Th là phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự, việc bà B yêu cầu bà Th trả lại số tiền vay là phù hợp với quy định tại Điều 466 và khoản 1 Điều 469 Bộ luật Dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xét buộc bà Th trả cho bà B số tiền 139.600.000 đồng là phù hợp với quy định pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên Tòa nguyên đơn không yêu cầu tính lãi suất nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Ý kiến của đại diện viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn tham gia phiên toà về việc giải quyết vụ án là có cơ sở phù hợp với quy định pháp luật.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị Th phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án”.

Hoàn trả cho bà Bùi Thị B 3.490.000đ (ba triệu bốn trăm chín chục nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai bà Bông đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 92, Điều 147, điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 463, Điều 466 và khoản 1 Điều 469 của Bộ luật dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Thị B. Buộc bà Nguyễn Thị Th trả cho bà Bùi Thị B số tiền 139.600.000đ (một trăm ba mươi chín triệu sáu trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Th phải chịu 6.980.000đ (sáu triệu chín trăm tám chục nghìn đồng) sung vào công quỹ Nhà nước. Hoàn trả cho bà Bùi Thị B 3.490.000đ(Ba triệu bốn trăm chín chục nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001455 ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 30 Luật thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 62/2021/DS-ST

Số hiệu:62/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:07/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về