Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 618/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 618/2021/DS-PT NGÀY 23/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 16/11/2021 và 23/11/2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 667/2020/TLPT-DS ngày 21/12/2020 về việc “Tranh hợp đồng vay tài sản”.Do bản án dân sự sơ thẩm số 332/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3549/2021/QĐ-PT ngày 11/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 629/2021/QĐPT-DS ngày 04/11/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Ngọc Đ, sinh năm 1979 Địa chỉ: đường số 6, khu phố 6, phường P, Tp. TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền:

1. Ông Trần Tấn Trí N, sinh năm 1969 (có mặt) Địa chỉ: Lê Quang Đ, Phường 7, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền số 004396 ngày 22/4/2020)

2. Ông Nguyễn Thạch Anh K, sinh năm 1972 (có mặt) Địa chỉ: đường số 6, khu phố 6, phường P, Tp. TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh (văn bản ủy quyền số 005590 ngày 03/6/2020)

Bị đơn:

 Bà Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1984 Địa chỉ: đường 4, khu phố 6, phường P, Tp. TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Việt H, sinh năm 1971 (có đơn yêu cầu vắng mặt) Địa chỉ: Nguyễn Xí, phường 26, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh (văn bản ủy quyền số 5129 ngày 16/5/2020).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thạch Anh K, sinh năm 1972 (có mặt) Địa chỉ: đường số 6, khu phố 6, phường P, Tp. TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh. Minh.

Người làm chứng: Bà Trần Thị Thu V, sinh năm 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: đường 6, khu phố 6, phường P, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí NỘI DUNG Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện nguyên đơn trình bày:

Do có quen biết, bà Đ đã cho bà L vay tiền để kinh doanh bất động sản, vay làm nhiều lần như sau:

Ngày 03/01/2017 vay 600.000.000 đồng, hạn trả là ngày 18/3/2017 Ngày 10/01/2017 vay 80.000.000 đồng, hạn trả là ngày 10/4/2017 Ngày 15/3/2017 vay 300.000.000 đồng, hạn trả là ngày 15/3/2018 Ngày 20/3/2017 vay 500.000.000 đồng, hạn trả là ngày 20/3/2018 Ngày 20/12/2017 vay 2.000.000.000 đồng.

Tất cả các khoản vay trên đều không thỏa thuận tiền lãi và cũng không nhận tiền lãi. Bà Đ đã nhiều lần yêu cầu bà L trả nợ nhưng bà L không thực hiện. Bà Đ xác định chỉ một mình bà L vay, không liên quan đến chồng bà L là ông Nguyễn Cao T, nên bà không yêu cầu ông T phải có trách nhiệm trả nợ.

Do có nhầm lẫn trong việc photo chứng cứ để nộp cho Tòa án, nên bà Đ đã rút yêu cầu đối với khoản vay 2.000.000.000 đồng theo giấy ngày 20/12/2017.

Người đại diện ông Nguyễn Thạch Anh K trình bày: Ông cũng thống nhất với ý kiến của bà Đ do ông N đại diện, và không yêu cầu bà L phải trả tiền lãi đối với số nợ trên.

Theo lời trình bày của bị đơn thì:

Bà L có quen biết với bà Đ thông qua việc chơi hụi với nhau. Bà L thừa nhận có vay của bà Đ 600.000.000 đồng vào ngày 03/01/2017 và đã trả bà Đ, có bà Vân làm chứng; khi trả bà Đ hứa sẽ xé hợp đồng vay nhưng nay tiếp tục kiện đòi nợ bà L. Các khoản vay ngày 10/01/2017, ngày 15/3/2017 và ngày 20/3/2017 bà L thừa nhận có vay, nhưng đã trả toàn bộ, qua tài khoản ngân hàng ACB. Các khoản vay này đều có tính lãi suất 3%/tháng, nhưng không có chứng từ. Bà L không chấp nhận toàn bộ các yêu cầu của bà Đ. Trước đây bà L có yêu cầu giám định chữ ký trên các giấy nợ nhưng do không có tiền đóng phí giám định nên bà L không yêu cầu nữa. Các khoản vay này là của cá nhân bà L, không liên quan đến chồng bà L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Thạch Anh K trình bày: Ông là chồng của bà Huỳnh Thị Ngọc Đ, việc bà Đ cho bà Nguyễn Thị Thùy L vay tiền ông không biết. Tiền bà Đ cho bà L vay là tài sản chung của vợ chồng, ông yêu cầu bà L trả tiền gốc còn thiếu.

Theo lời trình bày của người làm chứng- bà Trần Thị Thu V: Khoảng tháng 5/2018, bà L có hỏi vay bà số tiền 1.400.000.000 đồng để trả cho bà Đ 600.000.000 đồng, số còn lại dùng để mua bán nhà. Bà không trực tiếp chứng kiến việc bà L trả tiền cho bà Đ, nhưng sau đó bà có bà hỏi Đ là L có trả nợ cho Đ không, thì bà Đ nói L đã trả hết nợ rồi. Bà cũng là người viết và làm chứng việc bà Đ cho bà L vay số tiền 80.000.000 đồng, và là người viết giùm cho bà Đ “Hợp đồng vay tiền cá nhân” ngày 10/01/2017 và ký người làm chứng, còn việc hai bên giao nhận tiền với nhau thế nào bà hoàn toàn không biết. Trong khoản vay này, bà biết hai bên có nói với nhau lãi suất là 2,5%/tháng.

Bản án sơ thẩm số 332/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân quận TĐ cũ đã tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu đòi nợ 2.000.000.000 (hai tỷ) đồng.

2. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Buộc bà Nguyễn Thị Thùy Linh phải trả cho bà Huỳnh Thị Ngọc Đ, ông Nguyễn Thạch Anh K số nợ còn thiếu tại các giấy vay tiền ngày 03/01/2017 là 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng), ngày 10/01/2017 là 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng), ngày 15/3/2017 là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) và ngày 20/3/2017 vay 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu) đồng, tổng cộng là 1.480.000.000 đồng (Một tỷ bốn trăm tám mươi triệu đồng).

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chậm trả số tiền trên thì còn phải chịu thêm tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015 tại thời điểm trả nợ.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự cũng như các quy định về thi hành án dân sự.

Ngày 08/10/2020, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 01/02/2021:

Bị đơn cung cấp các chứng từ sao kê ngân hàng để chứng minh đã trả hết số nợ và đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử giữ y bản án sơ thẩm.

Các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Sau đó Hội đồng xét xử đã quyết định tạm ngừng phiên tòa để thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ phát sinh tại phiên tòa.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 16/11/2021:

Đại diện bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt.

Nguyên đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan giữ nguyên ý kiến, đề nghị y án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các thành viên Hội đồng xét xử cũng như các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nhận bản án dân sự sơ thẩm số 332/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên đúng trình tự thủ tục và đúng quy định của pháp luật. Các chứng cứ, tài liệu sao kê ngân hàng mà bị đơn cung cấp tại phiên tòa phúc thẩm không thể áp dụng giải quyết trong vụ án này. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Xét kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị Thùy L, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Về hình thức: Đơn kháng cáo được thực hiện trong hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận.

Về nội dung: Với yêu cầu kháng cáo đề nghị sửa bản án dân sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1.1]. Về số tiền vay:

Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, lời khai nhận của các bên tại tòa, đại diện của bị đơn thừa nhận có vay của nguyên đơn các khoản tiền: ngày 03/01/2017 vay 600.000.000 đồng, ngày 10/01/2017 vay 80.000.000 đồng, ngày 15/3/2017 vay 300.000.000 đồng, ngày 20/3/2017 vay 500.000.000 đồng, nhưng các khoản vay này là để choàng hụi, và được viết thành các giấy vay nợ. Lời khai này của đại diện bị đơn không được phía nguyên đơn chấp nhận, bị đơn cũng không có chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình trong khi các chứng cứ của nguyên đơn là các giấy vay tiền có chữ ký của bị đơn, do đó lời trình bày của đại diện bị đơn cho rằng tiền choàng hụi là không có cơ sở chấp nhận.

[1.2] Về việc thanh toán:

Tại Tòa án cấp sơ thẩm, bị đơn khai đã trả hết nợ, nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh, mặc dù Tòa án đã có yêu cầu cung cấp.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 01/02/2021, đại diện bị đơn cũng khẳng định đã thanh toán xong số nợ trên và cung cấp cho Hội đồng xét xử các chứng từ sao kê tài khoản ngân hàng, để chứng minh rằng trong khoản thời gian từ 20/5/2019 đến 21/02/2020 bị đơn đã chuyển khoản cho bà Đ và ông K tổng số tiền 1.499.500.000 đồng, tương ứng với số nợ 1.480.000.000 đồng mà nguyên đơn khởi kiện trong vụ án này, đồng thời xác định ngoài giao dịch vay mượn trong vụ án này, bị đơn không có khoản vay nào khác với nguyên đơn.

Phía nguyên đơn không thừa nhận các chứng từ sao kê nêu trên là để thanh toán cho số nợ 1.480.000.000 đồng. Nguyên đơn cho biết ngoài khoản nợ 1.480.000.000 đồng (trong vụ án này) và khoản nợ hơn 10 tỷ đồng đang được Tòa án nhân dân thành phố TĐ thụ lý giải quyết, thì bị đơn còn nợ khoản tiền 4,5 tỷ đồng (theo các chứng từ do nguyên đơn cung cấp cho Tòa theo Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 2175/QĐ-ST ngày 02/02/2021) và nguyên đơn cho rằng số tiền 1.499.500.000 đồng mà bị đơn chuyển khoản là để thanh toán cho khoản nợ thứ 3 này, khoản nợ này nguyên đơn chưa khởi kiện.

Căn cứ vào các tài liệu do nguyên đơn cung cấp, nhận thấy có chứng cứ về việc Tòa án nhân dân thành phố TĐ đang thụ lý vụ án khác giữa hai bên liên quan đến số tiền vay hơn 10 tỷ đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy trong vụ án này, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số nợ 1.480.000.000 đồng thể hiện qua 04 giấy vay vào các ngày 03/01/2017, 10/01/2017, 15/01/2017 và 23/01/2017. Bị đơn khai đã thanh toán xong số nợ này cho nguyên đơn, nên nghĩa vụ chứng minh thuộc về bị đơn. Mặc dù việc chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn đã bổ sung đầy đủ, căn cứ Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự, có cơ sở để xem xét các tài liệu chứng cứ sao kê ngân hàng.

Xét nguyên đơn thừa nhận bị đơn có chuyển khoản số tiền 1.499.500.000 đồng, nhưng lại không đồng ý cấn trừ vào khoản nợ 1.480.000.000 đồng, mà đồng ý cấn trừ vào khoản nợ khác (4,5 tỷ đồng) trong khi khoản nợ này bị đơn không thừa nhận và nguyên đơn cũng chưa khởi kiện, sự phản bác này của nguyên đơn không có cơ sở thuyết phục.

Như nhận định ở trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc bị đơn khai đã trả nợ được chứng minh bằng các chứng từ sao kê ngân hàng, yêu cầu kháng cáo của bị đơn là có cơ sở chấp nhận, vì vậy Hội đồng xét xử không thể thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc giữ y án bản sơ thẩm.

Do sửa bản án sơ thẩm, nên nghĩa vụ chịu án cũng sẽ được xác định lại theo Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn không phải chịu.

Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận.

[3]. Án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 147; Khoản 2 Điều 148; Khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn - bà Nguyễn Thị Thùy Linh.

Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 332/2020/DS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức (nay là Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn- bà Huỳnh Thị Ngọc Đ về việc yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị Thùy L thanh toán số tiền 1.480.000.000 (Một tỷ bốn trăm tám mươi triệu) đồng.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

Nguyên đơn phải chịu 56.400.000 (Năm mươi sáu triệu bốn trăm nghìn) đồng. Cấn trừ số tiền tạm ứng án phí 50.800.000 (Năm mươi triệu tám trăm nghìn) đồng mà nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu số 0056903 ngày 05/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận TĐ (nay là Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TĐ), Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên đơn phải nộp thêm 5.600.000 (Năm triệu sáu trăm nghìn) đồng.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn không phải chịu.

Hoàn lại cho bị đơn số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0058067 ngày 28/10/2020 của Chi cục Thi hành án quận TĐ (nay là Chi cục Thi hành án thành phố TĐ), Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 618/2021/DS-PT

Số hiệu:618/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về