Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 60/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 60/2021/DS-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 9 năm 2021, tại: Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2021/TLST- DS ngày 15 tháng 3 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST - DS ngày 03 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DongA Bank). Địa chỉ:

Số 130 Phan Đăng Lưu, Phường 3, quận Phú Nhuận, Thành Phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình Th, sinh năm 1989 – Nhân viên phụ trách kinh doanh phòng giao dịch Hội An; Địa chỉ: đường Hai Bà Trưng, phường CP, thành phố H - là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 01/04/2021). Có mặt.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Như Y, sinh năm 1989. Nơi cư trú: khối AB, phường CA, thành phố H, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1977. Nơi cư trú: khối AB, phường CA, thành phố H, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02/03/2021 của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (Sau đây gọi tắt là: DongA Bank) và các văn bản tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 19/12/2015 bà Nguyễn Như Y làm thủ tục đăng ký vay tiền trả góp và được DongA Bank phê duyệt cấp tín dụng cho vay ngày 08/01/2016 với số tiền vay là 20.000.000 đồng, thời hạn vay là 24 tháng, mục đích vay: Sửa chữa và mua sắm thêm trong gia đình; lãi suất cho vay là 10,8%/năm; phương thức trả nợ: Trả góp một kỳ là 1.015.000 đồng. Trong suốt quá trình vay thì bà Nguyễn Như Y đã trả cho nguyên đơn số tiền 4.275.000 đồng bao gồm nợ gốc 3.462.183 đồng, lãi trong hạn 683.789 đồng, lãi quá hạn 129.025 đồng. Hiện nay đã quá thời hạn trả nợ nhưng bà Nguyễn Như Y vẫn không trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Như Y trả khoản nợ gốc và lãi tính đến ngày 16 tháng 9 năm 2021 là 31.066.117 đồng. Trong đó: Nợ gốc 16.537.814 đồng, nợ lãi trong hạn: 3.636.211 đồng; nợ lãi quá hạn: 10.892.092 đồng.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật nhưng bị đơn bà Nguyễn Như Y không còn cư trú tại địa chỉ khi ký kết hợp đồng. Tòa án tiến hành các biện pháp thông báo trên phương tiện truyền thông và tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn bà Nguyễn Như Y vẫn không đến Tòa án tham gia tố tụng, không có ý kiến trình bày gửi đến Tòa án để được xem xét giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/8/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức M trình bày: Bà Nguyễn Như Y và ông Nguyễn Đức M có quan hệ hôn nhân từ năm 2007, hai vợ chồng chung sống tại khối AB , phường CA, thành phố H nhưng đời sống hôn nhân của vợ chồng không hạnh phúc nên cuối năm 2016 bà Ý bỏ nhà đi biệt tích từ đó đến nay không có tin tức gì. Chính vì lý do đó nên ông Nguyễn Đức M đã làm thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố bà Nguyễn Như Y là mất tích và sau đó yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với bà Nguyễn Như Y vào năm 2020. Đối với số tiền vay của bà Nguyễn Như Y tại DongA Bank thì bản thân ông không được biết và ông cũng không ký tên vào mục người bảo lãnh như tài liệu mà phía nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án. Nay ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định pháp luật chứ bản thân ông không chấp nhận việc mình phải có nghĩa vụ liên đới hay trả nợ thay cho bà Nguyễn Như Y đối với số nợ tại DongA Bank.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hội An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Thư ký được phân công đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự tự định đoạt. Đại diện nguyên đơn khi tham gia giải quyết vụ án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng. Bị đơn không còn cư trú tại địa chỉ khi giao kết hợp đồng nhưng không báo cho người có quyền biết; Tòa án đã tiến hành các biện pháp tống đạt theo quy định pháp luật nhưng bị đơn không tham gia tố tụng là chấp hành pháp luật tố tụng chưa nghiêm nên phải chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ của mình. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật tố tụng.

Về nội dung: Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á đã cho bà Nguyễn Như Y vay số tiền 20.000.000 đồng và bà Nguyễn Như Y phải có nghĩa vụ trả nợ vay cả gốc và lãi theo thỏa thuận hằng kỳ cho nguyên đơn. Tuy nhiên, bà Nguyễn Như Y chỉ trả được số tiền gốc và lãi tính đến ngày 10/02/2017 là 4.275.000 đồng. Như vậy, bà Nguyễn Như Y đã vi phạm hợp đồng và việc Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Như Y trả nợ là có căn cứ, đúng pháp luật.

Theo “Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ” do nguyên đơn cung cấp thì ông Nguyễn Đức M là người bảo lãnh cho bà Nguyễn Như Y vay và đồng thời ông M cũng có quan hệ vợ chồng hợp pháp với bà Y vào thời điểm vay.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Đức M không biết việc bà Nguyễn Như Y vay của DongA Bank số tiền nêu trên và cũng xác nhận rằng bản thân mình không ký vào giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ. Do đó, không có cơ sở để buộc ông M phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ hoặc trả nợ thay cho bà Nguyễn Như Y.

Từ những nhận định trên, đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 180, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Điều 463, Điều 466; Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DongA Bank). Buộc bà Nguyễn Như Y thanh toán số nợ gốc và lãi tính đến ngày 16 tháng 9 năm 2021 là là 31.066.117 đồng. Trong đó: Nợ gốc 16.537.814 đồng, nợ lãi trong hạn: 3.636.211 đồng; nợ lãi quá hạn: 10.892.092 đồng. Các đương sự phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm to quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Như Y trả nợ vay theo “Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ”. Bị đơn có địa chỉ nơi cư trú tại khối AB, phường CA, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Về việc xét xử vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhiều lần để bà Nguyễn Như Y tham gia phiên họp, hòa giải nhưng bà Nguyễn Như Y, ông Nguyễn Đức M cố tình vắng mặt. Tòa án tiến hành thủ tục niêm yết công khai xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đến nay, bà Nguyễn Như Y, ông Nguyễn Đức M vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xét xử vắng mặt bà Nguyễn Như Y, ông Nguyễn Đức M.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hội An giải quyết buộc bị đơn bà Nguyễn Như Y phải trả số nợ gốc và lãi tính đến ngày 16 tháng 9 năm 2021 là 31.066.117 đồng. Trong đó: Nợ gốc 16.537.814 đồng, nợ lãi trong hạn: 3.636.211 đồng; nợ lãi quá hạn: 10.892.092 đồng. Hội đồng xét xử nhận định, việc giao kết vay tiền của bà Nguyễn Như Y tại DongA Bank là hoàn toàn tự nguyện, các thỏa thuận, giao kết đều phù hợp với quy định pháp luật nên có hiệu lực pháp luật. Quá trình thực hiện hợp đồng thì bà Nguyễn Như Y đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận của các bên đó là không trả gốc và lãi mặc dù thời hạn vay đã hết. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Như Y trả nợ gốc và lãi là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử cũng nhận định rằng theo “Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ” có chữ ký của ông Nguyễn Đức M là chồng của bà Nguyễn Như Y ký ở mục người bảo lãnh vào thời điểm vay tiền và mục đích vay tiền là sửa chữa và mua sắm thêm trong gia đình. Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình thì ông Nguyễn Đức M phải có nghĩa vụ liên đới đối với khoản nợ này. Tuy nhiên, ông Minh không thừa nhận mình đã ký vào mục bảo lãnh và cũng khẳng định không biết việc bà Nguyễn Như Y vay tiền tại DongA Bank. Trong khi đó nguyên đơn cũng không có căn cứ để chứng minh rằng ông Nguyễn Đức M biết việc bà Nguyễn Như Y vay tiền để mua sắm thêm trong nhà đáp ứng như cầu thiết yếu của gia đình và đã ký vào mục bảo lãnh của giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ. Do đó, không có cơ sở để buộc ông Nguyễn Đức M phải có nghĩa vụ liên đới hoặc trả nợ thay cho bà Nguyễn Như Y.

[4] Xét, về số tiền mà nguyên đơn yêu cầu bà Nguyễn Như Y trả nợ thì thấy, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã thể hiện bà Nguyễn Như Y vay số tiền 20.000.000 đồng, lãi suất cho vay là 10,8%/năm. Bà Nguyễn Như Y đã trả cho nguyên đơn số tiền 4.275.000 đồng bao gồm nợ gốc 3.462.183 đồng, lãi trong hạn 683.789 đồng, lãi quá hạn 129.025 đồng. Bà Nguyễn Như Y còn nợ lại nguyên đơn số tiền gốc và lãi tính đến ngày 16 tháng 9 năm 2021 là 31.066.117 đồng. Trong đó: Nợ gốc 16.537.814 đồng, nợ lãi trong hạn: 3.636.211 đồng; nợ lãi quá hạn: 10.892.092 đồng. Do đó, cần buộc bà Nguyễn Như Y phải trả cho DongA Bank số tiền nợ là 31.066.117 đồng. Bao gồm: Nợ gốc 16.537.814 đồng, nợ lãi trong hạn: 3.636.211 đồng; nợ lãi quá hạn: 10.892.092 đồng.

[5]. Về án phí Dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án các đương sự trong vụ án phải chịu án phí dân sự như sau:

Bị đơn bà Nguyễn Như Y phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm đối với số tiền theo yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận là 31.066.117 đồng tương ứng với số tiền án phí là 1.553.000 đồng (Một triệu, năm trăm, năm mươi ba nghìn đồng).

Nguyên đơn DongA Bank không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí 740.000 đồng theo biên lai thu số 0005089 ngày 15/3/2021 của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DongA Bank).

[6]. Căn cứ khoản 2 Điều 180 Bộ luật tố tụng Dân sự, Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DongA Bank) phải chịu Lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng là 3.390.000 đồng (Ba triệu, ba trăm chín chục nghìn đồng) và Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á đã nộp đủ.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 180, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Điều 463, Điều 466; Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DongA Bank) đối với bị đơn bà Nguyễn Như Y. Buộc bà Nguyễn Như Y phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DongA Bank) số tiền là 31.066.117 đồng (Ba mươi mốt triệu, không trăm sáu sáu nghìn, một trăm mười bảy đồng). Bao gồm: Nợ gốc 16.537.814 đồng (Mười sáu triệu, năm trăm ba bảy nghìn đồng, tám trăm mười bốn đồng), nợ lãi trong hạn: 3.636.211 đồng (Ba triệu, sáu trăm, ba sáu nghìn, hai trăm mười một đồng); nợ lãi quá hạn: 10.892.092 đồng (Mười triệu, tám trăm chín mươi hai nghìn, không trăm chín mươi hai đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 16/9/2021) bà Nguyễn Như Y phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất được các bên thỏa thuận tại “Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ” được phê duyệt ngày 08/01/2016 trên số tiền nợ gốc là 16.537.814 đồng (Mười sáu triệu, năm trăm ba bảy nghìn đồng, tám trăm mười bốn đồng) còn phải trả cho đến khi trả xong nợ gốc này.

2. Về án phí Dân sự sơ thẩm:

Bị đơn bà Nguyễn Như Y phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm là 1.553.000 đồng (Một triệu, năm trăm, năm mươi ba nghìn đồng).

Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí 740.000 đồng (Bảy trăm, bốn chục nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005089 ngày 15/3/2021 của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DongA Bank).

3. Lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng là 3.390.000 đồng (Ba triệu, ba trăm chín chục nghìn đồng) do Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á phải chịu và đã nộp đủ.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (16/9/2021). Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

372
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 60/2021/DS-ST

Số hiệu:60/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hội An - Quảng Nam
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về