Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 527/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 527/2023/DS-PT NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 285/2023/TLPT-DS ngày 19/10/2023 về Tranh chấp hợp đồng vay tài sản;

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 74/2023/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 450/2023/QĐ-PT ngày 06 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trần Văn H, sinh năm 1983;

Địa chỉ: Số nhà 298, đường N, Tổ 42, Khóm X, Phường X, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Trần Mộng Y, sinh năm 1977;

Địa chỉ: Số nhà 786, đường P, Phường X, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

- Người kháng cáo: Chị Trần Mộng Y là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn anh Trần Văn H trình bày:

Ngày 25 và 26/01/2022 anh có cho chị Trần Mộng Y vay số tiền 1.000.000.000 đồng theo hợp đồng vay tiền HĐKT01/2022 ngày 26/01/2022. Thời hạn vay là khi cần tiền thì anh sẽ báo trước 01 tháng cho chị Y biết, lãi suất thỏa thuận miệng 6%/tháng. Ngày 26/02/2022 và 26/3/2022 chị Y có đóng lãi cho anh tổng cộng số tiền 120.000.000 đồng. Từ ngày 27/3/2022 đến nay chị Y không trả tiền lãi và vốn cho anh nữa.

Vì vậy, anh yêu cầu chị Trần Mộng Y trả số tiền vay là 1.000.000.000 đồng và tiền lãi còn thiếu là 167.733.000 đồng. Thời gian tính từ ngày 26/01/2022 đến ngày 06/7/2023 là 17 tháng 10 ngày, mức lãi suất 1,66%/tháng, thành tiền 1.000.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 17 tháng 10 ngày = 287.733.000 đồng – 120.000.000 đồng tiền lãi đã đóng và yêu cầu tiếp tục tính tiền lãi từ ngày 07/7/2023 đến khi thi hành án xong.

- Bị đơn chị Trần Mộng Y trình bày:

Chị thừa nhận có vay của anh H số tiền 1.000.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận miệng 6%/tháng. Chị đã trả tiền lãi cho anh H được 02 tháng với số tiền 120.000.000 đồng. Do đó, yêu cầu trừ số tiền lãi vượt quá quy định của pháp luật 86.800.000 đồng (120.000.000 đồng – 1.000.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 2 tháng) vào tiền vay gốc. Chị đồng ý trả cho anh H số tiền vay gốc 913.200.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 74/2023/DS-ST ngày 06/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn H.

Buộc chị Trần Mộng Y có trách nhiệm trả cho anh Trần Văn H số tiền vay 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng), số tiền lãi còn lại 167.733.000 đồng (một trăm sáu mươi bảy triệu bảy trăm ba mươi ba nghìn đồng). Tổng cộng tiền vay và tiền lãi là 1.167.733.000 đồng (một tỷ một trăm sáu mươi bảy triệu bảy trăm ba mươi ba nghìn đồng).

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác, quyền và thời hạn kháng cáo, quyền, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 21/7/2023 chị Trần Mộng Y làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Chị yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh H; Xem xét điều chỉnh lại tiền gốc và lãi mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử.

Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Trần Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, chị Trần Mộng Y vẫn giữ nguyên kháng cáo của mình. Các đương sự đồng ý điều chỉnh lại vốn và lãi theo quy định của pháp luật.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự có mặt tại phiên tòa đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của chị Trần Mộng Y, sửa một phần Bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Các đương sự đều thừa nhận việc anh H có cho chị Y vay số tiền 1.000.000.000đ vào ngày 26/01/2022 và chị Y có trả cho anh H được 02 tháng tiền lãi với mức lãi suất 06%/tháng vào ngày 26/02/2022 và 26/3/2022, tổng số tiền là 120.000.000đ.

Tuy nhiên, do các đương sự thỏa thuận mức lãi suất vay 06/%/tháng là cao hơn mức lãi suất theo quy định của pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu của anh H với mức lãi suất 1,66%/tháng/ số tiền vay 1.000.000.000đ, tính từ ngày vay 26/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm 06/7/2023 là 17 tháng 10 ngày với số tiền lãi cụ thể là: 1.000.000.000đ x 1,66%/tháng x 17 tháng 10 ngày = 287.733.000đ và trừ số tiền lãi chị Y đã đóng 120.000.000đ, số tiền lãi còn phải đóng là 167.733.000đ và buộc chị Y phải trả cho anh H tiền vay 1.000.000.000đ và 167.733.000đ tiền lãi, tổng cộng 1.167.733.000 đồng là chưa phù hợp. Bởi vì, theo quy định của pháp luật thì chị Y chỉ phải trả tiền lãi cho anh H mỗi tháng là:

1.000.000.000đ x 1,66%/tháng = 16.600.000đ. Trong khi đó vào ngày 26/02/2022 chị Y trả cho anh H 60.000.000đ (60.000.000đ – 16.600.000đ = 43.400.000đ) là vượt quá 43.400.000đ. Số tiền này phải được trừ vào tiền vốn vay là 1.000.000.000đ – 43.400.000đ = 956.600.000đ. Tiền lãi theo quy định của pháp luật đối với tháng tiếp theo của 956.600.000đ là 956.600.000đ x 1,66%/tháng = 15.879.500đ. Ngày 26/3/2022 chị Y trả lãi tiếp cho anh H 60.000.000đ (60.000.000đ – 15.879.500đ = 44.120.000đ) là vượt quá 44.120.000đ. Số tiền này phải được trừ vào tiền vốn nên số tiền vốn vay còn lại là 956.600.000đ - 44.120.000đ = 912.480.000đ.

[2] Do chị Y đã trả lãi cho anh H được 02 tháng tính đến ngày 26/3/2022, nên chị Y chỉ phải trả lãi tiếp cho anh H theo quy định của pháp luật từ ngày 27/3/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 06/7/2023 tương đương 15,3 tháng. Cụ thể là: 912.480.000đ x 1,66% x 15,3 tháng = 231.751.600đ. Tổng cộng vốn, lãi phải trả là 912.480.000đ + 231.751.600đ = 1.144.231.600đ. Vì vậy, chị Y kháng cáo yêu cầu điều chỉnh lại tiền gốc và lãi theo quy định của pháp luật là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm anh H cũng đồng ý điều chỉnh lại tiền vốn vay và lãi theo quy định của pháp luật. Xét thấy , đây là sự tự nguyện và phù hợp pháp luật nên chấp nhận.

Xét ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của chị Trần Mộng Y, sửa một phần Bản án sơ thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của chị Y, sửa một phần Bản án sơ thẩm.

Do chấp nhận kháng cáo của chị Y nên chị Y không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 147, Điều 148, Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 357, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 32/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận kháng cáo của chị Trần Mộng Y.

2. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 74/2023/DS-ST ngày 06/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh.

3. Chấp nhận yêu cầu của anh Trần Văn H.

4. Buộc chị Trần Mộng Y phải trả cho anh Trần Văn H số tiền vay 912.480.000 đồng và lãi là 231.751.600 đồng, tổng cộng là 1.144.231.600 đồng (Một tỷ một trăm bốn mươi bốn triệu hai trăm ba mươi mốt nghìn sáu trăm đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Về án phí:

+ Chị Trần Mộng Y phải chịu 46.327.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số 0012591 ngày 25/7/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Cao Lãnh. Chị Y còn phải nộp tiếp số tiền còn lại là 46.027.000 đồng.

+ Anh Trần Văn H được nhận lại 23.247.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 0012043 ngày 14/3/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Cao Lãnh.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 527/2023/DS-PT

Số hiệu:527/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về