Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 48/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 48/2023/DS-ST NGÀY 05/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Long An xét xử công khai vụ án thụ lý số 395/2022/TLST-DS ngày 15 tháng 12 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2023/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 3 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP N.

Địa chỉ trụ sở: Số H Cách Mạng Tháng T, Phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Quốc T – Chủ tịch Hội đồng quản trị. Người đại diện theo ủy quyền: Lộ Bá T – Chuyên viên xử lý nợ.

Địa chỉ: Lầu S Số A An Dương V, Phường T, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Trần Thị Ngọc T, sinh năm 1998.

Địa chỉ: số M Ấp M, xã Hướng Thọ P, thành phố T, tỉnh Long An.

(Ông T, bà T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/9/2022 của Ngân hàng TMCP N và các lời trình bày của ông Lộ Bá T là người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn có nội dung:

Ngày 25/12/2018, bà Trần Thị Ngọc T có ký Hợp đồng tín dụng dư nợ giảm dần số 0314/2018/925-CV và Giấy nhận nợ số 01/GNN-0314/2018/925-CV với Ngân hàng TMCP N để vay số tiền là 900.000.000đ; mục đích vay hoàn tiền mua bất động sản; lãi suất vay trong hạn là 12,5%/năm, lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/lần; lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn; Phạt chậm trả lãi là 10%/năm; thời hạn vay là 180 tháng kể từ ngày 25/12/2018 đến ngày 25/12/2033.

Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với khoản vay này, bà Trần Thị Ngọc T và Ngân hàng TMCP N đã ký kết “Hợp đồng thế chấp tài sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất)” số 0144/2018/925-BĐ ngày 25/12/2018 thế chấp quyền sử dụng thửa đất số 78 tờ bản đồ số 22 có diện tích là 787,9m2, loại đất ở tại nông thôn, thời hạn sử dụng lâu dài tọa lạc tại ấp Bình H, xã Đức T, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 047597 số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH06355 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 13/3/2014 theo đăng ký biến động ngày 21/12/2018 cho bà Trần Thị Ngọc T với giá trị tài sản thế chấp là 1.378.000.000đ.

Đến ngày 01/8/2022, bà Trần Thị Ngọc T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết, kế hoạch trả nợ vay cho Ngân hàng nên Ngân hàng đã chuyển khoản vay nêu trên sang nợ quá hạn. Sau nhiều lần thương lượng trả nợ nhưng đến nay bà Trần Thị Ngọc T vẫn không trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng như đã cam kết. Vì vậy, Ngân hàng TMCP N khởi kiện đối với bà Trần Thị Ngọc T yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

+ Yêu cầu bà Trần Thị Ngọc T trả cho Ngân hàng TMCP N tổng số tiền là 1.424.937.353đ, trong đó: tiền gốc là 890.000.000đ; tiền lãi tạm tính đến ngày 01/8/2022 là 534.937.353đ. Sau ngày 01/8/2022, bà Trần Thị Ngọc T tiếp tục trả lãi theo lãi suất được ghi trong hợp đồng tín dụng trên số vốn vay còn dư nợ cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ.

+ Nếu bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện không đầy đủ theo các hợp đồng tín dụng và giấy nhận nợ đã ký thì Ngân hàng TMCP N được quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo “Hợp đồng thế chấp tài sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất)” số 0144/2018/925-BĐ ngày 25/12/2018 để thu hồi nợ. Nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm mà vẫn không đủ trả nợ thì bà T vẫn phải có nghĩa vụ tiếp tục trả số nợ còn lại và Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tiếp tục kê biên phát mãi tài sản hợp pháp khác của bà T cho đến khi thanh toán hết toàn bộ khoản nợ.

Tại phiên toà ngày 05/5/2023, Ngân hàng đã cung cấp cho Tòa án bảng kê số tiền bà T còn thiếu tính tới thời điểm hiện nay, cụ thể là: nợ gốc là 890.000.000đ và tiền lãi suất tính đến ngày 05/5/2023 là 698.820.121, tổng cộng là 1.588.820.121đ. Ngân hàng yêu cầu bà T thanh toán số tiền gốc vay và lãi vay là 1.588.820.121đ và yêu cầu bà T tiếp tục chịu tiền lãi suất cho đến khi trả hết số nợ vay.

Bị đơn, bà Trần Thị Ngọc T vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án.

Bà Trần Thị Ngọc T đã được Tòa án thực hiện việc niêm yết, tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bà T không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; phiên hòa giải do Tòa án tổ chức; không có văn bản thể hiện ý kiến của bà T đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP N. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, bà T cũng vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu:

- Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: xét thấy yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP N là có căn cứ nên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Ngân hàng TMCP N khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản với bà Trần Thị Ngọc T có địa chỉ cư trú tại thành phố T nên căn cứ vào Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Long An.

[2] Về việc xét xử vắng mặt Nguyên đơn là Ngân hàng TMCP N, Bị đơn là bà Trần Thị Ngọc T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Biên bản phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập bà Tâm đến các phiên tòa sơ thẩm nhưng bà T không chấp hành. Riêng ông Lộ Bá T là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP N là Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt là phù hợp theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy phiên tòa hôm nay dù vắng mặt các đương sự nêu trên nhưng Tòa án đã tiến hành đầy đủ thủ tục tố tụng nên việc xét xử vắng mặt đương sự này là đúng theo quy định tại Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về hợp đồng vay tài sản: Căn cứ theo Hợp đồng tín dụng dư nợ giảm dần số 0314/2018/925-CV và Giấy nhận nợ số 01/GNN-0314/2018/925-CV ngày 25/12/2018 được ký kết giữa Ngân hàng TMCP N và bà Trần Thị Ngọc T có chữ ký tên và chữ viết tên Trần Thị Ngọc T nên đủ cơ sở để xác định giữa nguyên đơn và bị đơn đã xác lập Hợp đồng tín dụng dư nợ giảm dần số 0314/2018/925-CV và Giấy nhận nợ số 01/GNN-0314/2018/925-CV ngày 25/12/2018 với hạn mức là 900.000.000đ, mục đích vay hoàn tiền mua bất động sản; lãi suất vay trong hạn là 12,5%/năm, lãi suất được điều chỉnh 03 tháng/lần; lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn; Phạt chậm trả lãi là 10%/năm; thời hạn vay là 180 tháng kể từ ngày 25/12/2018 đến ngày 25/12/2033. Tính đến ngày 05/4/2023, bà T còn nợ Ngân hàng số tiền gốc vay là 890.000.000đ và tiền lãi phát sinh là 698.820.121đ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà T trả số tiền gốc vay là 890.000.000đ và tiền lãi suất phát sinh tính đến ngày 05/5/2023 là là 698.820.121đ, tổng cộng là 1.588.820.121đ. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở buộc bà T phải thực hiện nghĩa vụ trả số tiền gốc vay đối với hợp đồng tín dụng là 890.000.000đ và tiền lãi suất phát sinh tính đến ngày 05/5/2023 là 698.820.121đ, tổng cộng là 1.588.820.121đ cho Ngân hàng TMCP N theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự.

[4] Về phương thức thanh toán: Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP N yêu cầu bà T trả số tiền nợ gốc và lãi còn nợ Ngân hàng tạm tính đến thời điểm xét xử là 1.588.820.121đ. Xét thấy, bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng, vì vậy cần buộc bà T hoàn trả số tiền còn nợ cho Ngân hàng TMCP N sau khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

[5] Về lãi suất phát sinh sau ngày 05/5/2023 (là ngày xét xử sơ thẩm): Theo Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 12/2013/KDTM-GĐT ngày 16/5/2013 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm: lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay chưa thanh toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng. Trường hợp này, khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn (nếu có), lãi nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay”.

Hội đồng xét xử xét thấy tính chất, các tình tiết, sự kiện pháp lý trong vụ án này tương tự như các tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ. Vì vậy, theo quy định tại các Điều 471, 474 và Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005; Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 và theo Án lệ số 08/2016/AL, có đủ cơ sở buộc bà Trần Thị Ngọc T tiếp tục chịu lãi suất từ ngày 05/5/2023 đến thời điểm thanh toán nợ theo mức lãi suất nợ quá hạn được thỏa thuận với Ngân hàng TMCP N theo Hợp đồng tín dụng dư nợ giảm dần số 0314/2018/925-CV và Giấy nhận nợ số 01/GNN-0314/2018/925-CV ngày 25/12/2018 tương ứng với số vốn và thời gian chậm trả cho đến khi thi hành xong số tiền vay.

[6] Về hợp đồng thế chấp tài sản: Để đảm bảo các khoản vay của bà T tại Ngân hàng TMCP N, bà T có thế chấp tài sản là quyền sử dụng thửa đất số 78 tờ bản đồ số 22 có diện tích là 787,9m2, loại đất ở tại nông thôn, thời hạn sử dụng lâu dài tọa lạc tại ấp Bình H, xã Đức T, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 047597 số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH06355 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 13/3/2014 theo đăng ký biến động ngày 21/12/2018 cho bà Trần Thị Ngọc T.

Việc thế chấp tài sản để đảm bảo khoản vay của bà T được thực hiện theo “Hợp đồng thế chấp tài sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất)” số 0144/2018/925-BĐ ngày 25/12/2018 cho Ngân hàng TMCP N. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng thế chấp để bảo đảm thi hành án. Hội đồng xét xử xác định các hợp đồng thế chấp trên đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật nên yêu cầu tiếp tục thực hiện “Hợp đồng thế chấp tài sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất)” số 0144/2018/925-BĐ ngày 25/12/2018 để đảm bảo thi hành án đối với khoản nợ vay của bà T đối với Ngân hàng TMCP N là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 317, Điều 319 Bộ luật Dân sự.

Đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP N về việc yêu cầu bà Trần Thị Ngọc T vẫn phải có nghĩa vụ tiếp tục trả số nợ còn lại nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm mà vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng, Hội đồng xét xử xét thấy: yêu cầu này của Ngân hàng là phù hợp với quy định của pháp luật vì việc bà T nếu không thực hiện hết nghĩa vụ trả nợ sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng nên Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tiếp tục kê biên phát mãi tài sản hợp pháp khác của bà Trần Thị Ngọc T cho đến khi thanh toán hết toàn bộ khoản nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng.

[7] Về chi phí tố tụng: bà Trần Thị Ngọc T phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 10.000.000đ. Ngân hàng TMCP N đã tạm ứng chi phí trên nên cần buộc bà T phải hoàn trả cho Ngân hàng số tiền trên theo quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[8] Hội đồng xét xử xét thấy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án trên là có căn cứ theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: bà Trần Thị Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 59.664.604đ theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Ngân hàng TMCP N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 27.374.000đ do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 317, Điều 319, Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP N yêu cầu bà Trần Thị Ngọc T trả số tiền gốc vay là 890.000.000đ và tiền lãi suất phát sinh tính đến ngày 05/5/2023 là 698.820.121đ, tổng cộng là 1.588.820.121đ.

Buộc bà Trần Thị Ngọc T trả cho Ngân hàng TMCP N số tiền nợ gốc là 890.000.000đ và tiền lãi suất phát sinh tính đến ngày 05/5/2023 là 698.820.121đ, tổng cộng là 1.588.820.121đ theo Hợp đồng tín dụng dư nợ giảm dần số 0314/2018/925-CV ngày 25/12/2018.

2. Buộc bà Trần Thị Ngọc T phải có nghĩa vụ tiếp tục thanh toán số nợ lãi phát sinh từ ngày 05/5/2023 đến thời điểm thanh toán nợ theo mức lãi suất nợ quá hạn được thỏa thuận với Ngân hàng TMCP N theo theo Hợp đồng tín dụng dư nợ giảm dần số 0314/2018/925- CV và Giấy nhận nợ số 01/GNN-0314/2018/925-CV ngày 25/12/2018 tương ứng với số tiền vốn và thời gian chậm trả cho đến khi thi hành xong số tiền vay.

3. Tiếp tục thực hiện “Hợp đồng thế chấp tài sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất)” số 0144/2018/925-BĐ ngày 25/12/2018 quyền sử dụng thửa đất số 78 tờ bản đồ số 22 có diện tích là 787,9m2, loại đất ở tại nông thôn, thời hạn sử dụng lâu dài tọa lạc tại ấp Bình H, xã Đức T, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 047597 số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH06355 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 13/3/2014 theo đăng ký biến động ngày 21/12/2018 cho bà Trần Thị Ngọc T để đảm bảo cho việc thi hành án.

Trong trường hợp bà Trần Thị Ngọc T không trả được nợ, Ngân hàng TMCP N có quyền yêu cầu xử lý phát mãi tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo “Hợp đồng thế chấp tài sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất)” số 0144/2018/925-BĐ ngày 25/12/2018 thế chấp quyền sử dụng thửa đất số 78 tờ bản đồ số 22 có diện tích là 787,9m2, loại đất ở tại nông thôn, thời hạn sử dụng lâu dài tọa lạc tại ấp Bình H, xã Đức T, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 047597 số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH06355 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 13/3/2014 theo đăng ký biến động ngày 21/12/2018 cho bà Trần Thị Ngọc T để thu hồi nợ.

4. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Trần Thị Ngọc T phải hoàn trả cho Ngân hàng TMCP N số tiền 10.000.000đ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trần Thị Ngọc T phải nộp 59.664.604đ án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng TMCP N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 27.374.000đ theo biên lai thu số 0001980 ngày 14/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Long An.

6. Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 48/2023/DS-ST

Số hiệu:48/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về