TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 478/2022/DS-PT NGÀY 18/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 247/2022/TLPT- DS ngày 22 tháng 7 năm 2022 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 121/2022/DS-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4173/2022/QĐ-PT ngày 29 tháng 7 năm 2022 giữa:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh X, sinh năm 1985. (Có mặt) Địa chỉ: Số 60, tổ 3, ấp 3, M, huyện C, tỉnh B.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1969. (Có mặt)
Ông Lê Văn T, sinh năm 1991. (Có mặt) Cùng địa chỉ: Số 30 đường L, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Văn T1, sinh năm 1968. (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 30 đường L, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bà Nguyễn Thị Tuyết T2, sinh năm 1990. (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Mới 2, xã M, huyện U, tỉnh L.
3. Ông Trần Ngọc A, sinh năm 1979. (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Số tổ 3, ấp 3, M, huyện C, tỉnh B.
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/10/2021, Đơn sửa đổi, bổ sung khởi kiện đề ngày 17/02/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X có ông Nguyễn Đăng Q đại diện trình bày:
Ông Lê Văn T là con của bà Nguyễn Thị Đ. Bà Nguyễn Thị Thanh X là chị vợ của ông T. Bà Đ có nhu cầu vay tiền của bà X để làm ăn, nhưng bà X không tin tưởng bà Đ nên yêu cầu ông T đứng ra ký giấy vay tiền thì bà X mới cho bà Đ vay. Ông T đồng ý. Bà X cho bà Đ, ông T vay 04 lần với tổng số tiền là 1.700.000.000 đồng. Khi vay tiền hai bên có lập giấy vay tiền vào các ngày cụ thể sau:
Lần 1 vào ngày 01/7/2020, vay số tiền 500.000.000 đồng; Lần 2 vào ngày 23/10/2020, vay số tiền 500.000.000 đồng; Lần 3 vào ngày 15/12/2020, vay số tiền 300.000.000 đồng; Lần 4 vào ngày 27/4/2021, vay số tiền 400.000.000 đồng.
Việc vay tiền có thỏa thuận lãi suất 5%/tháng. Sau khi giao tiền, bà X được biết ông T đã giao lại toàn bộ số tiền 1.700.000.000 đồng cho bà Đ. Hàng tháng, ông T là người trả tiền lãi cho bà X. Ông T đã trả lãi đến tháng 05/2021 thì không trả nữa. Tổng số tiền lãi mà bà X đã nhận là 520.000.000 đồng, cụ thể:
Số tiền vay lần 1: 500.000.000đ x 5%/tháng x 10 tháng = 250.000.000 đồng; Số tiền vay lần 2: 500.000.000đ x 5%/tháng x 07 tháng = 175.000.000 đồng; Số tiền vay lần 3: 300.000.000đ x 5%/tháng x 05 tháng = 75.000.000 đồng; Số tiền vay lần 4: 400.000.000đ x 5%/tháng x 01 tháng = 20.000.000 đồng.
Đến ngày 23/6/2021, ông T viết Giấy vay tiền xác nhận còn nợ tiền gốc là 1.700.000.000 đồng và cam kết ngày 23/8/2021 sẽ trả hết tiền cho bà X nhưng đến hẹn ông T, bà Đ vẫn không thực hiện như cam kết.
Nay bà X khởi kiện, yêu cầu ông T, bà Đ có nghĩa vụ liên đới thanh toán số tiền gốc đã vay là 1.700.000.000 đồng theo Giấy nợ ngày 23/6/2021, yêu cầu tính lãi với mức lãi suất quá hạn là 2.49%/tháng kể từ ngày 23/8/2021 cho đến ngày xét xử, yêu cầu thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Số tiền bà X cho bà Đ, ông T vay là tiền chung của bà X và chồng là ông Trần Ngọc A. Khi cho bà Đ, ông T vay, bà X có nói cho ông Ngọc A biết.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị Đ trình bày:
Ông Lê Văn T là con trai bà Đ. Bà Nguyễn Thị Thanh X là chị vợ của ông T. Do cần vốn làm ăn nên bà Đ có nhờ ông T hỏi mượn tiền của bà X nhiều lần với tổng số tiền là 1.700.000.000 đồng. Bà xác nhận có nhận số tiền vay của bà X là 1.700.000.000 đồng. Bà không nhận tiền trực tiếp từ bà X mà do ông T mang tiền về đưa cho bà. Việc ông T có ký giấy nợ với bà X hay không thì bà không biết.
Khi vay tiền, bà X có tính lãi suất 7%/tháng, bà đã đóng lãi cho bà X tổng cộng là 900.000.000 đồng. Tiền lãi hàng tháng, bà đưa cho ông T đóng. Giữa ông T và bà X có ghi giấy giao nhận tiền lãi hay không bà không biết.
Nay bà X khởi kiện yêu cầu bà cùng với ông T trả số tiền 1.700.000.000 đồng thì bà có ý kiến: Bà xác nhận còn nợ bà X số tiền gốc là 1.700.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà đã trả 900.000.000 đồng tiền lãi cho bà X, do đó, bà đề nghị trừ số tiền lãi đã đóng vào tiền gốc, còn nợ lại tiền gốc là 800.000.000 đồng. Bà đề nghị được trả mỗi tháng 10.000.000 đồng cho đến khi hết nợ do hiện tại việc buôn bán khó khăn.
Khi vay tiền của bà X, bà không nói cho chồng bà là ông Lê Văn T1 biết. Toàn bộ số tiền vay, bà cho ông T mua xe ô tô, số còn lại bà trả lãi cho các khoản vay khác của bà. Nếu ông T không đồng ý cùng bà trả nợ cho bà X thì bà cũng đồng ý một mình sẽ trả nợ cho bà X.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Lê Văn T trình bày:
Ông là em vợ của bà Nguyễn Thị Thanh X. Bà Nguyễn Thị Đ là mẹ ruột ông T. Bà Đ muốn vay tiền của bà X để làm ăn. Bà X không tin tưởng mẹ ông nên có yêu cầu ông đứng ra viết giấy vay tiền thì bà X mới cho mẹ ông vay. Ông là con và rất tin tưởng vào mẹ mình nên ông đã mượn tiền của bà X tổng cộng 04 lần như phía bà X trình bày. Sau khi viết giấy vay tiền thì bà X đưa tiền cho ông và ông đem về đưa lại cho bà Đ sử dụng. Ngày 23/6/2021, ông viết giấy vay tiền còn nợ bà X số tiền gốc là 1.700.000.000 đồng và hẹn đến ngày 23/8/2021 sẽ trả hết nợ.
Việc vay tiền, hai bên có thỏa thuận mức lãi suất 7%/tháng. Hàng tháng, bà Đ có đưa tiền để ông trả tiền lãi cho bà X. Đến tháng 05/2021 thì không trả nữa do dịch Covid-19 bùng phát, không buôn bán được. Ông không nhớ chính xác số tiền lãi đã trả cho bà X. Khi trả tiền lãi, ông và bà X không viết giấy giao nhận tiền lãi.
Nay bà X khởi kiện thì ông có ý kiến: Ông đồng ý liên đới cùng với bà Đ trả nợ cho bà X số tiền gốc là 1.700.000.000 đồng. Đối với số tiền lãi, ông đề nghị bà X giảm tiền lãi cho ông và bà Đ vì hiện tại buôn bán khó khăn, đề nghị trả mỗi tháng 10.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Ngọc A xin vắng mặt nhưng tại bản khai trình bày:
Ông là chồng của bà Nguyễn Thị Thanh X. Số tiền mà bà X cho ông T và bà Đ vay là tiền chung của vợ chồng. Ông đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà X và đại diện theo ủy quyền của bà X.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T1 xin vắng mặt nhưng tại bản khai trình bày:
Ông là chồng của bà Nguyễn Thị Đ. Bà Đ vay tiền không có nói cho ông biết. Đến lúc có người đến gây áp lực đòi nợ thì ông mới biết. Bà Đ không sử dụng số tiền vay để phục vụ sinh hoạt cho gia đình, vì vợ chồng ông buôn bán thu nhập đủ sống. Ông không biết bà Đ sử dụng số tiền vay để làm gì nên ông không có liên quan và không có trách nhiệm gì đối với khoản vay của bà Đ với bà X.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Tuyết T2 xin vắng mặt nhưng tại bản khai trình bày:
Bà là vợ của ông Lê Văn T và là em của bà Nguyễn Thị Thanh X. Bà có biết việc ông T vay của bà X số tiền 1.700.000.000 đồng dùm cho bà Đ. Toàn bộ số tiền vay ông T đưa cho bà Đ, không đem về sử dụng cho gia đình nên bà T2 không liên quan và không có trách nhiệm gì đối với khoản vay của ông T, bà Đ.
* Tại bản án dân sự sơ thẩm số 121/2022/DS-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú đã:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X:
Buộc bà Nguyễn Thị Đ và ông Lê Văn T có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thanh X, ông Trần Ngọc A số tiền 1.657.039.688 đồng (Một tỷ sáu trăm năm mươi bảy triệu không trăm ba mươi chín nghìn sáu trăm tám mươi tám đồng) trong đó tiền gốc là 1.353.680.000 đồng (Một tỷ ba trăm năm mươi ba triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) và tiền lãi là 303.359.688 đồng (Ba trăm lẻ ba triệu ba trăm năm mươi chín nghìn sáu trăm tám mươi tám đồng).
Thời hạn thanh toán: Một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
Hủy "Giấy vay tiền ngày 01/7/2020, Giấy vay tiền ngày 23/10/2020, Giấy vay tiền ngày 15/12/2020, Giấy vay tiền ngày 27/4/2021 và Giấy vay tiền ngày 23/6/2021", bản chính do bà Nguyễn Thị Thanh X đang giữ.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Đ và ông Lê Văn T chịu án phí dân sự sơ thẩm là 61.711.191 đồng (Sáu mươi mốt triệu bảy trăm mười một nghìn một trăm chín mươi mốt đồng).
Hoàn lại cho bà Nguyễn Thị Thanh X số tiền tạm ứng án phí là 31.500.000 đồng (Ba mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0034729 ngày 30/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 27/5/2022 bị đơn bà Nguyễn Thị Đ có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
* Bị đơn bà Nguyễn Thị Đ trình bày:
Bà không thỏa thuận vay tiền của bà Nguyễn Thị Thanh X, bà không biết bà X là ai. Tất cả các giấy vay tiền do bà X trình bày trước Tòa án là việc vay tiền giữa bà X và ông Lê Văn T, không liên quan đến bà Đ. Khi vụ việc xảy ra, ông T có nói với bà rằng nếu bà không nhận thì ông T sẽ bị đi tù. Do già cả, trình độ hiểu biết pháp luật kém, lo sợ cho con bị vướng vào lao lý nên bà đã nhận hết toàn bộ trách nhiệm về mình.
Bà đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà X về việc buộc bà phải có trách nhiệm thanh toán cho bà X số tiền 1.650.000.000 đồng.
* Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X trình bày:
Bà không đồng ý với kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
* Bị đơn ông Lê Văn T trình bày:
Ông không đồng ý với kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ. Chính bà Đ là người nhờ ông vay tiền của bà X để bà Đ về cho người khác vay lại, hưởng tiền chênh lệch. Nay bà Đ lại phủ nhận hết trách nhiệm, buộc ông phải trả nợ một mình cho bà X thì ông cũng không đồng ý cùng trả nợ với bà Đ nữa. Ông T xác nhận ông không kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T1, bà Nguyễn Thị Tuyết T2, ông Trần Ngọc A có đơn xin vắng mặt.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại Thành Phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
- Về tố tụng : Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự,đảm bảo cho các đương sự có các quyền và nghĩa vụ theo quy định; gửi các Quyết định, Thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự đầy đủ, đúng thời hạn. Hội đồng xét xử đúng thành phần, phiên tòa diễn ra theo đúng trình tự và quy định của pháp luật.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Bị đơn bà Nguyễn Thị Đ kháng cáo cho rằng bà không biết bà Nguyễn Thị Thanh X là ai, bà không có thỏa thuận vay tiền của bà X. Việc vay mượn tiền trên thực tế chỉ diễn ra giữa bà X và con trai bà Đ là ông Lê Văn T, không liên quan đến bà Đ. Do đó bà Đ không có trách nhiệm phải thanh toán số tiền nợ của ông T cho bà X.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X cùng bị đơn ông Lê Văn T vẫn xác định bà Đ là người nhờ ông T vay tiền của bà X, toàn bộ số tiền vay đều được ông T đem về giao cho bà Đ.
[2] Hội đồng xét xử nhận thấy, trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bà Đ luôn thừa nhận có nhờ ông T vay tiền của bà X nhiều lần với tổng số tiền là 1.700.000.000 đồng. Cụ thể:
- Tại bản tự khai ngày 17/02/2022 do chính bà Đ tự viết và ký tên, bà Đ trình bày: “tôi có nhờ con tôi là Lê Văn T – Nguyễn Thị Tuyết T2 mượn tiền của bà Nguyễn Thị Thanh X nhiều lần, tổng số tiền là 1,7 tỷ đồng. Tôi không nhận tiền trực tiếp từ bà X mà do con trai tôi đem về… Tôi xác nhận còn nợ 1,7 tỷ tiền gốc. Tôi sẽ trả hàng tháng 10 triệu đến khi hết nợ. Đối với tiền lãi thì tôi đề nghị trừ vào tiền gốc 1,7 tỷ. Đây là số tiền mượn của tôi cho con mua xe gần 300 triệu, số còn lại tôi trả nợ. Tiến không đồng ý cùng tôi trả nợ cho bà X thì tôi cũng đồng ý một mình tôi sẽ trả nợ cho bà X”.
- Tại Biên bản không T hành hòa giải được ngày 11/3/2022, Biên bản đối chất ngày 01/4/2022, Biên bản hòa giải ngày 10/5/2022, Biên bản phiên tòa ngày 28/4/2022 và ngày 24/5/2022, bà Đ luôn trình bày thống nhất nhau và giống với bản tự khai về việc bà có nhờ con trai là Lê Văn T và con dâu là Nguyễn Thị Tuyết T2 hỏi mượn tiền của bà Nguyễn Thị Thanh X nhiều lần với tổng số tiền là 1.7000.000 đồng; số tiền mượn do ông T đem về cho bà; số tiền vay được bà sử dụng vào việc cho ông T 300.000.000 đồng mua xe, còn lại thì bà trả nợ, làm ăn. Tại phiên tòa ngày 28/4/2022, bà Đ còn trình bày ông T không muốn mượn tiền của bà X nhưng bà thì muốn mượn tiền để làm ăn nên bà đã kêu ông T mượn tiền dùm.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, ông Lê Văn T luôn khẳng định bà Đ là người nhờ ông vay tiền của bà X để làm ăn; sau khi ông ký các giấy vay tiền và nhận tiền của bà X thì ông đem về giao hết cho bà Đ.
Những lời trình bày của bà Đ và ông T đều phù hợp với nhau về quá trình vay mượn tiền, giao nhận tiền và trả lãi với bà X.
Nay, tại phiên tòa phúc thẩm, bà Đ lại thay đổi lời trình bày, cho rằng bà không quen biết bà X, không vay tiền của bà X và cho rằng bà không có trách nhiệm phải trả nợ cho bà X. Bà Đ còn trình bày do ông T yêu cầu bà phải thừa nhận việc có nợ tiền bà X, nếu không nhận thì ông T sẽ đi tù. Những lời trình bày này của bà Đ là không có cơ sở để chấp nhận.
Cấp sơ thẩm buộc bà Đ cùng ông T phải liên đới trả nợ gốc 1.657.039.688 đồng và tiền lãi 303.359.688 đồng cho bà X là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Đ, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[3] Về án phí: Bà Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Đ. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh X:
Buộc bà Nguyễn Thị Đ và ông Lê Văn T có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thanh X, ông Trần Ngọc A số tiền 1.657.039.688 đồng (Một tỷ sáu trăm năm mươi bảy triệu không trăm ba mươi chín nghìn sáu trăm tám mươi tám đồng), trong đó bao gồm tiền gốc là 1.353.680.000 đồng (Một tỷ ba trăm năm mươi ba triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) và tiền lãi là 303.359.688 đồng (Ba trăm lẻ ba triệu ba trăm năm mươi chín nghìn sáu trăm tám mươi tám đồng) theo các Giấy vay tiền ngày 01/7/2020, Giấy vay tiền ngày 23/10/2020, Giấy vay tiền ngày 15/12/2020, Giấy vay tiền ngày 27/4/2021 và Giấy vay tiền ngày 23/6/2021.
Thời hạn thanh toán: Một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
2. Về án phí:
- Bà Nguyễn Thị Đ và ông Lê Văn T chịu án phí dân sự sơ thẩm là 61.711.191 đồng (Sáu mươi mốt triệu bảy trăm mười một nghìn một trăm chín mươi mốt đồng).
Hoàn lại cho bà Nguyễn Thị Thanh X số tiền tạm ứng án phí mà bà X đã nộp là 31.500.000 đồng (Ba mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0034729 ngày 30/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú.
- Bà Nguyễn Thị Đ chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ toàn bộ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà Đ đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0035653 ngày 30/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 478/2022/DS-PT
Số hiệu: | 478/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về