Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 471/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 471/2023/DS-PT NGÀY 27/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 24 và 27 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 282/2023/TLPT- DS ngày 11 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản và hủy hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS-ST ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phong Điền bị nguyên đơn bà Võ Thị D kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 467/2023/QĐPT-DS ngày 23 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị D, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt) Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

Bà Nguyễn Hoàng Trang T, sinh năm 1976; địa chỉ: C N, K, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt Ông Mai Công N, sinh năm 1962; địa chỉ: số F đường B, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Phan Ngọc C, sinh năm 1987; địa chỉ: ấp M, xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt) Đại diện theo ủy quyền của bị đơn:

Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1990; (có mặt) Bà Nguyễn Thanh Thảo L1, sinh năm 1995; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: A C, phường B, quận B, thành phố Cần Thơ.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng C1 (nay là Văn phòng C2); địa chỉ: số B đường T, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt).

4. Người kháng cáo: Bà Võ Thị D là nguyên đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện cho nguyên đơn - bà Nguyễn Hoàng Trang T trình bày:

Vào ngày 04/11/2019 bà Võ Thị D có cho ông Phan Ngọc C vay số tiền là 100.000.000 đồng. Hai bên có ký hợp đồng vay tiền tại văn phòng C1, thời hạn vay là 12 tháng, mục đích vay là để sử dụng và kinh doanh, bà D đã giao đủ tiền cho ông C sau khi ký hợp đồng. Đến hạn trả tiền ông C cố tình lánh mặt không chịu thực hiện nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà D. Do đó bà D khởi kiện yêu cầu ông C trả số tiền 100.000.000 đồng tiền nợ gốc và 49.600.000 đồng nợ lãi, tạm tính đến ngày 04/6/2022. Tổng số tiền gốc và tiền lãi là 149.600.000 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay bà Võ Thị D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bà D yêu cầu ông C trả 100.000.000 đồng tiền nợ gốc và nợ lãi tính từ ngày 04/11/2019 đến ngày 04/6/2023 là 43 tháng, lãi suất 1.6%/01 tháng với số tiền là 68.800.000 đồng. Tổng cộng tiền gốc và tiền lãi là 168.800.000 đồng.

Theo đơn phản tố và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện cho nguyên đơn - ông Nguyễn Văn L trình bày:

Ông Phan Ngọc C và bà Võ Thị D quen biết nhau vào tháng 8/2018. Sau đó ông C, bà D phát sinh tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng. Để ràng buộc tình cảm bà D yêu cầu ông C ký hợp đồng vay tài sản ngày 04/11/2019 tại văn phòng C1. Do có tình cảm với nhau nên ông C đồng ý ký tên vào hợp đồng, nhưng trên thực tế bà D không có giao tiền cho ông C, ông C không có nhận bất kỳ số tiền nào từ bà D liên quan đến hợp đồng nêu trên. Ông C không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà D. Ông C có đơn phản tố yêu cầu hủy “hợp đồng vay tiền” ký ngày 04/11/2019 tại Văn phòng C1 (nay là văn phòng C2), số công chứng 1794, quyển số 01/2019-TP/CC-SCC/HĐGD.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Văn phòng C1 (nay là Văn phòng C2) trình bày:

Đối với Hợp đồng vay tiền số công chứng 1794, quyển số 01/2019-TP/CC-SCC/HĐGD đã được Văn phòng C1 (nay là văn phòng C2) chứng nhận ngày 04/11/2019. Về trình tự công chứng cho hai bên tham gia đối với hợp đồng nêu trên Công chứng viên của Văn phòng công chứng thực hiện đúng với quy định của luật công chứng và pháp luật liên quan hiện hành. Văn phòng công chứng Lê Thị Lệ H bận giải quyết công việc của văn phòng xin vắng mặt không tham gia phiên tòa và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS - ST ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phong Điền đã tuyên xử:

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Võ Thị D.

2/ Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là ông Phan Ngọc C.

3/ Hủy bỏ “Hợp đồng vay tiền” ký ngày 04/11/2019 giữa bà Võ Thị D và ông Phan Ngọc C tại Văn phòng C1 (nay là văn phòng C2), số công chứng 1794, quyển số 01/2019-TP/CC-SCC/HĐGD.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của các đương. Bản án nêu trên nguyên đơn bà Võ Thị D kháng cáo, đề nghị xem xét lại toàn bộ vụ án theo hướng hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm do chưa xem xét đầy đủ nội dung và chứng cứ của vụ án.

Bị đơn cung cấp cho Hội đồng xét xử: 01 văn bản hủy hợp đồng mua bán xe được công chứng ngày 04/11/2019 tại Văn phòng C1; 01 Hợp đồng mua bán xe giữa ông Phan Ngọc C và ông Nguyễn trung H1 được công chứng ngày 30/8/2019 tại Văn phòng C1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu quan điểm:

* Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Trong giai đoạn phúc thẩm Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về Thụ lý xét xử phúc thẩm (Điều 285); Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm (Điều 286); Cung cấp tài liệu, chứng cứ (Điều 287); Triệu tập những người tham gia tố tụng (Điều 294).

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa đúng theo quy định.

- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Về việc giải quyết vụ án dân sự: Căn cứ vào những chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bác yêu cầu phản tố của bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn: Theo đơn kháng cáo và lời trình bày của đại diện ủy quyền nguyên đơn tại phiên tòa cho thấy phía nguyên đơn yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm do phiên tòa sơ thẩm không xem xét đầy đủ các chứng cứ và nội dung giải quyết vụ án. Do đó, vấn đề cần đặt ra xem xét tại phiên tòa phúc thẩm là bản án sơ thẩm có vi phạm về đánh giá chứng cứ và nội dung giải quyết vụ án hay không;

[2] Về nội dung: Theo đơn khởi kiện và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, phía nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số nợ vay 100.000.000 đồng và tiền lãi từ khi vay cho đến khi xét xử sơ thẩm là 43 tháng, mức lãi suất 1.6%/tháng tương đương số tiền 68.800.000 đồng. Chứng cứ đề nguyên đơn yêu cầu phía bị đơn trả số tiền nêu trên là hợp đồng vay tiền được giao kết giữa nguyên đơn với bị đơn có công chứng tại Văn Phòng C1 ngày 04/11/2019; Quá trình giải quyết vụ án, phía bị đơn cũng xác định có ký Hợp đồng vay tiền với nguyên đơn. Do đó, có căn cứ xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có ký Hợp đồng vay tiền như đã nêu trên;

[3] Theo Hợp đồng vay tiền nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận về việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền 100.000.000 đồng. Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận về các vấn đề như thời gian vay, lãi suất, mục đích sử dụng vốn vay cũng như địa điểm, phương thức giao tài sản vay. Theo đó, tại Điều 5 của hợp đồng có thể hiện “địa điểm, phương thức giao tài sản vay do hai bên tự thỏa thuận”. Quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn chưa có chứng cứ nào chứng minh được đã giao tài sản vay cho bị đơn và bị đơn cũng không thừa nhận có nhận tiền vay của nguyên đơn. Mặt khác tại phiên tòa, đại diện của nguyên đơn cũng không xác định được địa điểm nguyên đơn giao tiền cho bị đơn là ở đâu, khi nào. Hơn nữa, về phương thức giao tiền, phía nguyên đơn trình bày cũng chưa có sự nhất quán cụ thể, tại biên bản làm việc ngày 25/3/2021 đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn trình bày “bà Võ Thị D có cho ông Phan Ngọc C vay tiền 02 lần. Lần thứ nhất vay 60.000.000 đồng đ ông C chuộc vàng và lần thứ hai vay 40.000.000 đồng đ ông C chuộc xe (Bà D sẽ cung cấp giấy tờ sau)”. Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn trình bày “nguyên đơn giao tiền cho bị đơn 03 lần”. Đồng thời, lời trình bày này của phía nguyên đơn có mâu thuẫn với thỏa thuận trong hợp đồng về mục đích vay tiền. Theo hợp đồng, mục đích vay tiền là để kinh doanh, nhưng phía nguyên đơn trình bày cho bị đơn vay tiền là để chuộc vàng và xe;

[4] Về thu thập chứng cứ, tại phiên tòa phúc thẩm đại diện nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử thu thập chứng cứ là Văn bản về việc hủy hợp đồng mua bán xe của bị đơn được công chứng tại Văn phòng C1 đề chứng minh nguyên đơn có đưa tiền cho bị đơn để bị đơn đi chuộc lại xe. Phía bị đơn có cung cấp cho Hội đồng xét xử 01 “Văn bản hủy hợp đồng mua bán xe” ngày 04/11/2019 được công chứng tại Văn phòng C1. Phía nguyên đơn xác định Văn bản mà bị đơn cung cấp là chứng cứ mà phía nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử thu thập. Qua xem xét nội dung của Văn bản hủy hợp đồng mua bán xe thể hiện bị đơn có thỏa thuận với ông Nguyễn Trung H2 về việc hủy Hợp đồng mua bán xe số 1317 được Công chứng ngày 30/8/2019 tại Văn phòng C1. Việc thỏa thuận này không có liên quan đến nguyên đơn và nội dung Văn bản cũng không có thể hiện nguyên đơn đưa tiền cho bị đơn. Như vậy, chứng cứ này chưa chứng minh được nguyên đơn có giao tiền cho bị đơn.

[5] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn Hội đồng xét xử xét thấy, Hợp đồng vay tiền giữa nguyên đơn và bị đơn là một giao dịch dân sự được xác lập dựa trên cơ sở tự nguyện, có công chứng, các bên khi tham gia ký hợp đồng đều có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi; mục đích và nội dung của hợp đồng cũng không vi phạm vào điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó, Hợp đồng vay tiền giữa nguyên đơn và bị đơn có đủ điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự. Tuy nhiên, như đã nhận định trên phía nguyên đơn chưa chứng minh được đã giao tiền cho bị đơn là chưa thể hiện đúng và đầy đủ các thỏa thuận nên đã vi phạm Điều 8 của Hợp đồng vay tiền, việc vi phạm này dẫn đến mục đích của Hợp đồng không đạt được. Do đó, đối chiếu với quy định của pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Điều 423 của Bộ luật dân sự hủy bỏ Hợp đồng vay tiền là có căn cứ.

Từ những cơ sở trên cho thấy những chứng cứ nguyên đơn cung cấp và chứng cứ được thu thập tại cấp phúc thẩm chưa đủ cơ sở đề xác định nguyên đơn có giao tiền vay cho bị đơn nên bản án dân sự sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả số tiền vay là có căn cứ. Do đó, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc hủy Bản án sơ thẩm là không có căn cứ chấp nhận. Bản án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ nên giữ nguyên. Tuy nhiên, để đảm bảo việc thi hành án nên cần điều chỉnh lại cách tuyên về án phí sơ thẩm.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là chưa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng. Nguyên đơn được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 12, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Thị D.

2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS - ST ngày 08/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ.

2.1 Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Võ Thị D.

2.2 Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là ông Phan Ngọc C.

2.3 Hủy bỏ “Hợp đồng vay tiền” ký ngày 04/11/2019 giữa bà Võ Thị D và ông Phan Ngọc C tại Văn phòng C1 (nay là văn phòng C2), số công chứng 1794, quyển số 01/2019-TP/CC-SCC/HĐGD.

3. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Võ Thị D phải chịu 8.440.000 đồng (tám triệu bốn trăm bốn mươi ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bà Võ Thị D được khấu trừ vào số tiền 3.740.000 đồng (ba triệu bảy trăm bốn mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007725 ngày 18/01/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ, bà D phải nộp thêm 4.700.000 đồng (Bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).

- Ông Phan Ngọc C được nhận lại 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0007728 ngày 01/02/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ.

4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Võ Thị D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Bà D được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) thành án phí theo biên lai thu số 0007974 ngày 13/6/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 471/2023/DS-PT

Số hiệu:471/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về