TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 45/2023/DS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 98/TLST-DS ngày 06 tháng 6 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2023/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2023 và Quyết định Hoãn phiên tòa số: 66/2023/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thanh T, sinh năm: 1967.
Địa chỉ: ấp E, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
- Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thanh T: Anh Phạm Kim V, sinh năm: 1995. Địa chỉ: ấp E, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: 1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1977 Địa chỉ: ấp E, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
2. Ông Trần Xuân T1, sinh năm 1974 Địa chỉ: Ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
(các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn do anh Phạm Kim V làm đại diện trình bày: Ngày 05/8/2022 ông Trần Xuân T1 và bà Nguyễn Thị N có vay của bà T số tiền 1.300.000.000 đồng để có vốn làm ăn, bà N và ông T1 có thỏa thuận thế chấp cho bà T 690m2 đất có chiều ngang 23m x dài 30m thuộc một phần thửa đất số 23 tờ bản đồ số 12 tại ấp E, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai (hai bên có lập hợp đồng sang nhượng đất ngày 14/12/2022 không có công chứng, chứng thực). Hai bên thỏa thuận đến ngày 30/12/2022 nếu ông T1 bà N không trả số tiền 1.300.000.000 đồng thì sẽ làm thủ tục chuyển diện tích đất trên cho bà T. Tuy nhiên đến hết thời hạn vay bà N và ông T1 không trả tiền vay như đã thỏa thuận. Đến ngày 30/12/2022 bà T gặp ông T1 bà N để yêu cầu trả số tiền vay và yêu cầu nếu không có tiền trả thì làm thủ tục chuyển nhượng cho bà T diện tích đất 690m2 đất có chiều ngang 23 x dài 30 thuộc một phần thửa đất số 23 tờ bản đồ số 12 tại ấp E, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai như đã thỏa thuận nhưng ông T1 bà N không đồng ý.
Số tiền cho bà N và ông T1 vay là tài sản riêng của bà T. Nay bà T yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 trả số tiền vay là 1.300.000.000 đồng và tiền lãi từ ngày 01/11/2022 đến ngày 27/9/2023 là 117.534.000 đồng.
* Theo bản tự khai khai, biên bản hòa giải bị đơn là bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 trình bày: Vào tháng 8/2021 bà T có gửi vợ chồng bà số tiền 1.000.000.000 đồng để hùn vốn đầu tư đất, sau đó được khoảng 9 tháng thì bà T đòi lại tiền, do đất đai không bán được nên vợ chồng bà không xoay sở trả cho bà T được nên đã thỏa thuận với bà T trả lãi số tiền 1.000.000.000 đồng là 300.000.000 đồng, tổng cộng gốc và lãi là 1.3000.000.000 đồng và viết giấy mượn tiền ngày 5/5/2022. Bà và ông T1 đồng ý cắt diện tích đất 690m2 đất có chiều ngang 23x dài 30 thuộc một phần thửa đất số 23 tờ bản đồ số 12 tại ấp E, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai để cấn trừ cho bà T nhưng giá đất xuống nên bà T không đồng ý.
Nay bà và ông T1 thừa nhận thừa nhận còn nợ bà T số tiền 1.3000.000.000 đồng và đồng ý trả cho bà T. Tuy nhiên, do điều kiện hiện nay rất khó khăn nên xin không trả tiền lãi.
* Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Về quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ, việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng và Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) thực hiện đúng theo quy định pháp luật, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự được đảm bảo; việc xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp quy định pháp luật, về nội dung vụ án, bà T khởi kiện yêu cầu bà N, ông T1 phải có nghĩa vụ trả cho bà số tiền vay là 1.300.000.000 đồng, bà N, ông T1 thống nhất số nợ và đồng ý trả nợ như yêu cầu của bà T nên ghi nhận.
Về lãi suất: Bà T yêu cầu bà N, ông T1 trả lãi suất với mức 10%/năm đối với số tiền gốc là có cơ sở chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời khai của các đương sự và kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Bà Trần Thanh T có đơn khởi kiện đối với bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 yêu cầu trả số tiền đã vay và tiền lãi nên xác định đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự, trong đó bà T là nguyên đơn, bà N, ông T1 là bị đơn. Bà Nguyễn Thị N cư trú tại xã S, huyện C, ông Trần Xuân T1 cư trú tại xã X, huyện C nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ.
Bà Trần Thanh T ủy quyền cho anh Phạm Kim V làm đại diện, do đó anh V làm người đại diện theo ủy quyền của bà T theo quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đại diện cho nguyên đơn anh Phạm Kim V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về yêu cầu đối với số tiền nợ gốc của nguyên đơn: Bà Trần Thanh T cung cấp “Giấy mượn tiền” ngày 05/8/2022 có nội dung bà Trần Thanh T cho bà Nguyễn Thị N mượn số tiền 1.300.000.000 đồng có chữ ký của bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1. Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 thừa nhận còn nợ bà T số tiền 1.3000.000.000 đồng và đồng ý trả cho bà T. Đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, buộc bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 thanh toán cho bà Trần Thanh T số tiền 1.3000.000.000 đồng là phù hợp.
[2.2] Về yêu cầu thanh toán tiền lãi của nguyên đơn: Do bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay nên phải chịu trách nhiệm thanh toán tiền lãi theo quy định pháp luật.
Theo “Giấy mượn tiền” các bên không thỏa thuận lãi suất và có tranh chấp nên lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điếu 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ là 10%/năm nên yêu cầu mức lãi suất 10%/năm của bà T là có cơ sở.
Về thời hạn chậm thanh toán nợ vay: Theo Giấy mượn tiền thể hiện ngày trả là 30/10/2022, đến thời hạn trả nhưng bà N, ông T1 không thanh toán. Do đó xác định thời gian chậm trả của khoản vay 1.300.000.000 đồng từ ngày 01/11/2022.
Số tiền lãi được xác định cụ thể như sau: Tiền lãi trên nợ gốc 1.300.000.000 đồng từ ngày 01/11/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm 27/9/2023 (330 ngày) là: 1.300.000.000 đồng x (10%/365 ngày) x 330 ngày = 117.534.247 đồng.
Như vậy, tổng số tiền nợ gốc và tiền lãi chưa trả buộc bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 thanh toán cho bà Trần Thanh T sau khi được làm tròn là 1.417.534.000 đồng (Một tỷ bốn trăm mười bảy triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn đồng).
[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trần Thanh T số tiền gốc và lãi là 1.417.534.000 đồng (Một tỷ bốn trăm mười bảy triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn đồng) nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 36.000.000 đồng + 617.534.000 x 3% = 54.526.000 đồng.
[4] Quan điểm của Viện kiểm sát phù hợp quy định pháp luật và phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 357, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thanh T đối với bà Nguyễn Thị N1 và ông Trần Xuân T1 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Buộc bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trần Thanh T số tiền gốc và lãi là 1.417.534.000 đồng (Một tỷ bốn trăm mười bảy triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
- Về án phí: Bà Nguyễn Thị N và ông Trần Xuân T1 phải chịu 54.526.000 đồng (Năm mươi bốn triệu năm trăm hai mươi sáu nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả bà Trần Thanh T 26.475.000 đồng (Hai mươi sáu triệu bốn trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000098 ngày 05/6/2023.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 45/2023/DS-ST
Số hiệu: | 45/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về