Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 39/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 39/2022/DS-PT NGÀY 17/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 33/2022/TLPT-DS ngày 12 tháng 8 năm 2022 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2022/DS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 37/2022/QĐ-PT ngày 23 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2022/QĐ-PT ngày 12 tháng 9 năm 2022, Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số: 152/2022/QĐ-CA ngày 15 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H. Cư trú tại: Đường T, khối 1, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Minh H. Cư trú tại: Phố Đ, khu đô thị P, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Phạm Thị T: Luật sư Văn phòng luật sư L thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Tô Văn H. Cư trú tại: Thôn H, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

2. Anh Phạm Trung K. Cư trú tại: Phố Đ, khu đô thị P, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

3. Anh Khổng Cường A. Cư trú tại: Đường P, khu đô thị P, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Minh H, là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án dân sự sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Phạm Thúy P, tên thường gọi là T (đã chết ngày 26-5-2021) có chồng là anh Khổng Cường A và là chị gái của anh Phạm Trung K. Chị Nguyễn Thị Minh H là vợ anh Phạm Trung K.

Bà Nguyễn Thị H là người kinh doanh, có giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh ngành nghề quần áo may sẵn, giầy dép, mua bán đồng Việt Nam với đồng Nhân dân tệ.

Hồ sơ mở tài khoản số 8400205235530 tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh Lạng Sơn (viết tắt là Ngân hàng Agribank L) mang tên Tô Văn H có đăng ký Mobile Banking (SMS banking) là số điện thoại 0915.481.184. Thông tin tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam cung cấp thể hiện: Số điện thoại 0915.481.184 khách hàng đăng ký sử dụng là Khổng Cường A.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H quen biết với bị đơn chị Nguyễn Thị Minh H khi bị đơn còn làm việc ở Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín, Chi nhánh Lạng Sơn (viết tắt là Ngân hàng Sacombank L). Sau khi nghỉ việc tại Ngân hàng, vợ chồng bị đơn cùng chị Phạm Thúy P kinh doanh tiền cho gia đình. Trước đó công việc kinh doanh tiền do bà Đinh Thị N là mẹ chồng của bị đơn thực hiện. Khi còn sống, chị Phạm Thúy P sử dụng nhiều số điện thoại trong đó có số 0915.481.184, zalo của chị Phạm Thúy P theo số điện thoại này là “t b” nghĩa là: T b.

Tại cấp sơ thẩm: Tại Đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền gốc 1.474.000.000đồng và tiền lãi là 500đồng/1.000.000đồng/ngày kể từ ngày 20-5- 2021 cho đến khi khởi kiện. Trước ngày 20-5-2021, nguyên đơn đã giao dịch chuyển tiền cho chị Phạm Thúy P vay nhiều lần, hai bên đã thanh toán xong các khoản vay đó. Tháng 3-2021, chị Phạm Thúy P có hỏi nguyên đơn có tiền thì cho vợ chồng nhà bị đơn vay và ngay sau đó anh Phạm Trung K và bị đơn cũng hỏi vay tiền, nên nguyên đơn đã đồng ý cho vay số tiền 7.000.000.000đồng chuyển khoản vào tài khoản số 033301111986 mang tên Phạm Trung K tại Ngân hàng Sacombank Lạng Sơn, khoản vay này nguyên đơn đã được trả lại ngay trong ngày hôm đó. Việc nguyên đơn cho các khách hàng vay đều qua hình thức chuyển khoản, không làm giấy tờ vì đặc thù của việc kinh doanh cần tiền nhanh chóng và tin tưởng nhau. Chiều ngày 20-5-2021, chị Phạm Thúy P có hỏi nguyên đơn có tiền không, thì cho em của chị Phạm Thúy P là bị đơn vay, ngay lúc đó bị đơn cầm điện thoại của chị Phạm Thúy P trực tiếp hỏi nguyên đơn vay số tiền 1.474.000.000đồng và hẹn đến ngày 28-5-2021 trả, lãi suất theo thông lệ là 500đồng/1.000.000đồng/ngày. Do chị Phạm Thúy P có uy tín trong quan hệ làm ăn nên nguyên đơn đồng ý cho bị đơn vay và đã chuyển khoản 1.474.000.000đồng từ tài khoản 515010566888 của nguyên đơn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, Chi nhánh Lạng Sơn (viết tắt là Ngân hàng Quân đội Lạng Sơn) vào tài khoản số 090355486015 của bị đơn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam, Chi nhánh Lạng Sơn (viết tắt là Ngân hàng Techcombank L) theo số tài khoản từ tin nhắn zalo “tho beo” của chị Phạm Thúy P gửi đến. Nguyên đơn đã chuyển khoản thành 05 mã, 04 mã chuyển mỗi mã 300.000.000đồng và 01 mã chuyển 274.000.000đồng. Nguyên đơn đã chụp ảnh bằng điện thoại thể hiện giao dịch thành công gửi vào zalo “tho beo” để thông báo đã chuyển thành công số tiền cho vay. Sau đó, cũng vào chiều cùng ngày, nguyên đơn cho chị Phạm Thúy P vay số tiền 2.461.150.000đồng và đã chuyển số tiền này vào tài khoản số 84005235530 mang tên Tô Văn H tại Ngân hàng Agribank Lạng Sơn theo đề nghị của chị Phạm Thúy P. Ngày 26-5-2021, chị Phạm Thúy P chết đột ngột, nên nguyên đơn vẫn chưa đòi bị đơn và gia đình chị Phạm Thúy P trả tiền đã vay. Sau đó, nguyên đơn đã nhiều lần đến nhà bị đơn và nhà chồng chị Phạm Thúy P để đòi tiền nhưng bị đơn không trả và tránh mặt, còn gia đình chị Phạm Thúy P không có thiện trí trả nợ. Nên nguyên đơn khởi kiện 02 vụ án ra Tòa. Trong vụ án này, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ 1.474.000.000đồng và tiền lãi phát sinh. Sau đó, nguyên đơn đã rút yêu cầu khởi kiện về số tiền lãi, chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền gốc là 1.474.000.000đồng.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Minh H và những người đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng bị đơn không có quan hệ làm ăn hay vay nợ với nguyên đơn. Ngày 20-5-2021, bị đơn không biết ai đã chuyển số tiền 1.474.000.000đồng vào tài khoản của bị đơn tại Ngân hàng Techcombank Lạng Sơn. Cũng trong ngày 20-5-2021, anh Tô Văn H đến gặp bị đơn cho biết số tiền đó là do khách hàng của anh chuyển cho anh, nên anh đề nghị bị đơn chuyển lại số tiền đó vào tài khoản của anh tại Ngân hàng Agribank Lạng Sơn. Sau đó, bị đơn đã chuyển số tiền đó theo đề nghị của anh Tô Văn H. Vì vậy, bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Tô Văn H cho biết: Trước đây anh làm việc tại quán hát Karaoke ở P của vợ chồng bị đơn. Chị Phạm Thúy P là chị gái của anh Phạm Trung K và có chồng là anh Khổng Cường A. Do dịch bệnh Covid quán hát vắng khách, nên chị Phạm Thúy P đã thuê anh chở chị đi giải quyết công việc và đưa đón các con của chị đi học. Anh được chị Phạm Thúy P nhờ đứng tên mở tài khoản tại một số ngân hàng trong đó có Ngân hàng Agribank Lạng Sơn. Anh chỉ đứng tên tài khoản còn việc quản lý, sử dụng tài khoản do chị Phạm Thúy P quyết định, số điện thoại đăng ký giao dịch internet banking 0915.481.184 là số của chị Phạm Thúy P. Hàng ngày, chị Phạm Thúy P sử dụng một vài số điện thoại, trong đó có số điện thoại 0915.481.184, anh thường liên lạc với chị Phạm Thúy P theo số điện thoại này. Khi nào chị Phạm Thúy P cần rút tiền mặt thì anh ký giấy làm thủ tục rút tiền. Số tiền rút được do chị Phạm Thúy P cầm và sử dụng. Sau khi chị Phạm Thúy P chết, anh Phạm Trung K đưa anh ra một số ngân hàng trong đó có Ngân hàng Agribank Lạng Sơn rút số tiền còn lại và đóng tài khoản. Toàn bộ số tiền rút được từ các ngân hàng do anh Phạm Trung K quản lý, sử dụng. Anh không biết số tài khoản của bị đơn tại Ngân hàng Techcombank Lạng Sơn, không có sự việc ngày 20-5-2021 anh đến gặp bị đơn nói khách hàng của anh chuyển tiền vào tài khoản của bị đơn. Anh cũng không quen biết nguyên đơn và không nắm được mối quan hệ giữa chị Phạm Thúy P, bị đơn với nguyên đơn.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Trung K, anh Khổng Cường A dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không tham gia tố tụng và cũng không có ư kiến phản hồi.

Bà Hoàng Bích L là nguyên đơn trong vụ án dân sự khác tại Tòa án sơ thẩm có khai: Ngày 19-5-2021, chị Phạm Thúy P (T) nhắn tin zalo từ số điện thoại 0915.481.184 hỏi vay bà số tiền 5.000.000.000đồng chuyển tiền vào tài khoản mang tên Tô Văn H số 030044255266 tại Ngân hàng Sacombank Lạng Sơn và bà đã cho vay theo đề nghị. Sau khi chị Phạm Thúy P chết, bà đã đề nghị những người thừa kế của chị Phạm Thúy P trả nợ nhưng không được chấp nhận. Khi bà khởi kiện vụ án ra Tòa thì bà Đinh Thị N là mẹ đẻ của chị Phạm Thúy P nhận trách nhiệm và đã trả tiền cho bà nên bà đã rút đơn khởi kiện và Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án.

Chị Đỗ Thị Quỳnh A người làm chứng trong vụ án dân sự mà bà Hoàng Bích L là nguyên đơn trình bày: Ngày 24-5-2021, chị cho chị Phạm Thúy P (tên thường gọi là T) vay số tiền 5.000.000.000đồng bằng việc chuyển tiền vào tài khoản mang tên Tô Văn H. Sau đó, chị Phạm Thúy P đã trả được số tiền 2.600.000.000đồng. Do chị Phạm Thúy P chết nên người nhà chị Phạm Thúy P đã thỏa thuận sẽ trả chị số tiền 1.750.000.000đồng và chị đã nhận được số tiền 1.500.000.000đồng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2022/DS-ST ngày 05-7-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, đã quyết định: Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn phải trả số tiền lãi của số tiền gốc đã vay. Buộc bị đơn phải có nghĩa vụ trả nguyên đơn số tiền 1.474.000.000đồng. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm trả, về án phí, về quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật.

Trong thời hạn luật định, bị đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm, bị đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn chị Nguyễn Thị Minh H giữ nguyên nội dung kháng cáo. Ngoài ra, bị đơn cho rằng: Mặc dù bị đơn tự nguyện ký hợp đồng ủy quyền và hợp đồng dịch vụ pháp lý với Luật sư tại cấp sơ thẩm nhưng tất cả những gì bị đơn, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đã trình bày và cung cấp tại cấp sơ thẩm là không đúng sự thật. Mọi ý kiến gửi Tòa án đều do người ủy quyền và Luật sự của bị đơn tự đưa ra và bảo bị đơn ký nhận. Việc bị đơn nhận và chuyển số tiền 1.474.000.000đồng từ nguyên đơn sang tài khoản của anh Tô Văn H tại Ngân hàng Agribank Lạng Sơn (tài khoản chị Phạm Thúy P trực tiếp quản lý và sử dụng) là theo ý kiến của chị Phạm Thúy P. Việc giao dịch giữa chị Phạm Thúy P với nguyên đơn ra sao về số tiền này bị đơn không được biết, không tham gia bàn bạc. Việc chị Phạm Thúy P sử dụng số tiền đó ra sao bị đơn không nắm được. Bị đơn không vay tiền của nguyên đơn, không làm ăn buôn bán với nguyên đơn. Vợ chồng bị đơn cũng đã nhiều lần nhận và chuyển tiền từ tài khoản của mình cho các tài khoản khác theo đề nghị của chị Phạm Thúy P mà không được hưởng tiền công. Nay chị Phạm Thúy P đã chết thì người thừa kế quyền và nghĩa vụ của chị Phạm Thúy P phải có trách nhiệm giải quyết về số tiền này với nguyên đơn. Do bị đơn không vay số tiền này nên bị đơn không chấp nhận trả số tiền đó cho nguyên đơn.

Bà Nguyễn Thị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bà không chấp nhận những gì bị đơn đã trình bày và không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn.

Anh Phạm Trung K nhất trí với ý kiến bị đơn đã đưa ra. Ngoài ra, anh thừa nhận: Sau khi chị Phạm Thúy P chết thì anh đã yêu cầu anh Tô Văn H đi rút toàn bộ số tiền hơn 1.000.000.000đồng còn trong tài khoản mang tên anh Tô Văn H tại các Ngân hàng và đóng các tài khoản đó. Đây là tiền của chị gái anh nên anh đã đưa lại toàn bộ cho bố mẹ đẻ của mình quản lý.

Anh Khổng Cường A không nhất trí với ý kiến của bị đơn và Luật sư của bị đơn. Anh không biết việc kinh doanh, việc làm ăn buôn bán của vợ mình là Phạm Thúy P. Việc nhận, chuyển số tiền 1.474.000.000đồng mà bị đơn trình bày anh không tham gia. Bị đơn cho rằng người thừa kế quyền và nghĩa vụ của chị Phạm Thúy P phải có trách nhiệm giải quyết về số tiền này với nguyên đơn anh không nhất trí. Anh đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.

Bà Phạm Thị T là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa thể hiện không hề có giao dịch vay tiền giữa bị đơn và nguyên đơn. Tuy bị đơn có nhận được 1.474.000.000đồng tại tài khoản của mình nhưng ngay sau đó bị đơn đã chuyển đến tài khoản mà chị Phạm Thúy P đang trực tiếp quản lý, sử dụng theo ý kiến của chị Phạm Thúy P. Bị đơn không được sử dụng số tiền này. Người sử dụng số tiền đó là chị Phạm Thúy P. Nay chị Phạm Thúy P đã chết thì những người thừa kế của chị Phạm Thúy P phải có trách nhiệm với nguyên đơn về số tiền này. Nguyên đơn phải khởi kiện những người thừa kế của chị Phạm Thúy P để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại và bị đơn chỉ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án cụ thể như sau:

1. Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa đã được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; có đương sự vắng mặt nhưng đã có ý kiến xin xét xử vắng mặt.

2. Về việc giải quyết kháng cáo: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ, trên cơ sở các ý kiến của các đương sự thấy rằng: Do có mối quan hệ làm ăn từ trước, trên cơ sở sự tin tưởng và cách thức giao dịch kinh doanh tiền tệ thực tế của chính nguyên đơn, của gia đình bị đơn nhất là chị Phạm Thúy P có đủ căn cứ xác định: Nguyên đơn đã chuyển 1.474.000.000đồng từ tài khoản Ngân hàng Quân đội Lạng Sơn đến số tài khoản 19035545486015 của bị đơn tại Ngân hàng Techcombank Lạng Sơn để cho bị đơn vay. Sau đó, chính bị đơn là người trực tiếp sử dụng, định đoạt số tiền đó. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn cho rằng bị đơn nhận và chuyển số tiền này là theo ý kiến của chị Phạm Thúy P, bị đơn không được sử dụng số tiền đó nên người thừa kế của chị Phạm Thúy P phải có trách nhiệm giải quyết về số tiền này. Xét thấy, đây là giao dịch phát sinh giữa bị đơn và chị Phạm Thúy P, hiện chị Phạm Thúy P đã chết. Nếu quyền và lợi ích bị xâm phạm bị đơn có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bản án sơ thẩm buộc bị đơn phải trả nguyên đơn số tiền 1.474.000.000đồng là có căn cứ pháp lý. Do đó, kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2022/ST-DS ngày 05-7-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Phiên tòa đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2, có đương sự vắng mặt nhưng đã có đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người này.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn chị Nguyễn Thị Minh H yêu cầu giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật, thấy rằng: Tất cả các đương sự có mặt tại phiên tòa phúc thẩm đều thừa nhận:

[3] Thứ nhất: Số tài khoản 19035545486015 tại Ngân hàng Techcombank Lạng Sơn đứng tên bị đơn và bị đơn là người trực tiếp quản lý, sử dụng tài khoản này.

[4] Thứ 2: Số tài khoản 8400205235530 tại Ngân hàng Agribank Lạng Sơn tuy mang tên anh Tô Văn H nhưng người trực tiếp quản lý, sử dụng tài khoản này là chị Phạm Thúy P.

[5] Thứ 3: Số điện thoại 0915.481.184 tuy khách hàng đăng ký sử dụng là anh Khổng Cường A nhưng người sử dụng thực tế là chị Phạm Thúy P.

[6] Khi còn sống, chị Phạm Thúy P sử dụng nhiều số điện thoại trong đó có số 0915.481.184. Zalo của chị Phạm Thúy P theo số điện thoại này là “tho beo” nghĩa là: Thỏ béo. Chị Phạm Thúy P và nguyên đơn nhiều lần có quan hệ giao dịch vay tiền. Qua kiểm tra tài khoản Ngân hàng của chị Phạm Thúy P sử dụng và các đương sự trong vụ án thể hiện rất rõ các giao dịch này. Các tin nhắn zalo điện thoại của nguyên đơn thể hiện: Chiều ngày 20-5-2021, sau khi có trao đổi và nhận được tin nhắn từ zalo “tho beo” về số tài khoản cần chuyển tiền vào thì nguyên đơn mới chuyển số tiền 1.474.000.000đồng vào tài khoản số 19035545486015 của bị đơn tại Ngân hàng Techcombank Lạng Sơn.

[7] Cả nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận: Chiều ngày 20-5-2021, nguyên đơn đã chuyển số tiền 1.474.000.000đồng (chuyển 05 mã) từ tài khoản 515010566888 của nguyên đơn tại Ngân hàng Quân đội Lạng Sơn vào tài khoản số 19035545486015 của bị đơn tại Ngân hàng Techcombank Lạng Sơn. Ngay sau đó, bị đơn lại chuyển khoản toàn bộ số tiền này (chuyển 05 mã) vào tài khoản số 8400205235530 mang tên anh Tô Văn H tại Ngân hàng Agribank Lạng Sơn. Như vậy, bị đơn là người đã được nhận và là người trực tiếp sử dụng, định đoạt số tiền 1.474.000.000đồng từ tài khoản số 515010566888 chuyển đến.

[8] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn thừa nhận: Chị Phạm Thúy P là người kinh doanh đổi tiền, vợ chồng bị đơn là người đã trực tiếp thực hiện nhận và chuyển tiền cho chị Phạm Thúy P nhiều lần. Việc kinh doanh đổi tiền vay trên cơ sở sự tin tưởng, thường thể hiện qua dữ liệu điện tử như gọi điện thoại trực tiếp hoặc nhắn tin qua zalo và thường chuyển tiền qua chuyển khoản tại các ngân hàng. Mọi việc chuyển tiền từ tài khoản của vợ chồng bị đơn đến các tài khoản khác chủ yếu vợ chồng bị đơn thực hiện thông qua dữ liệu điện tử với chị Phạm Thúy P. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với lời khai của bà Hoàng Bích L, chị Đỗ Thị Quỳnh A là những người đã từng chuyển khoản cho chị Phạm Thúy P vay số tiền lớn mà không làm giấy tờ do đặc thù của việc giao dịch tiền tệ cần nhanh chóng và trên sở sở tin tưởng nhau và phù hợp với lời khai của nguyên đơn. Bị đơn phủ nhận toàn bộ những gì bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đã trình bày và cung cấp tại cấp sơ thẩm. Bị đơn cho rằng do không hiểu biết pháp luật và không biết việc người ủy quyền đã trình bày những nội dung gì tại cấp sơ thẩm. Thực tế bị đơn nhận và chuyển số tiền 1.474.000.000đồng mà nguyên đơn chuyển đến tài khoản của bị đơn là do bị đơn thực hiện theo ý kiến của chị Phạm Thúy P. Bị đơn không sử dụng số tiền này, cũng không được chị Phạm Thúy P trả công. Nay chị Phạm Thúy P đã chết thì người thừa kế của chị Phạm Thúy P phải có trách nhiệm giải quyết số tiền này với nguyên đơn, bị đơn không có trách nhiệm phải trả cho nguyên đơn số tiền đó vì giữa các bên không có việc vay tài sản. Thấy rằng:

[9] Thứ nhất: Bị đơn là người có trình độ, có hiểu biết xã hội, có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự và là người đã từng công tác tại Ngân hàng một thời gian dài.

[10] Thứ 2: Hiện chị Phạm Thúy P đã chết, không để lại di chúc. Anh Khổng Cường A không biết và không thừa nhận giao dịch chuyển tiền giữa các bên như trên, đồng thời anh xác định không có trách nhiệm gì về giao dịch này.

[11] Thứ 3: Cũng trong chiều ngày 20-5-2021, sau khi nguyên đơn chuyển số tiền 1.474.000.000đồng vào tài khoản của bị đơn để cho bị đơn vay; thì giữa nguyên đơn và chị Phạm Thúy P phát sinh giao dịch vay tiền như mọi giao dịch khác đã thực hiện trước đó. Khi đó, nguyên đơn đã cho chị Phạm Thúy P vay số tiền 2.461.150.000đồng, số tiền này nguyên đơn chuyển vào tài khoản số 8400205235530 mang tên Tô Văn H tại Ngân hàng Agribank Lạng Sơn theo đề nghị của chị Phạm Thúy P. Sau đó, chị Phạm Thúy P đã trả lại cho nguyên đơn một phần số tiền vay trên qua tài khoản. Do chị Phạm Thúy P chết đột ngột, không giải quyết được việc trả nợ của số tiền còn lại 1.024.000.000đồng với người thừa kế của chị Phạm Thúy P nên nguyên đơn đã khởi kiện vụ án ra Tòa án. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 35/2022/DS-PT ngày 05-9-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, đã buộc anh Khổng Cường A (là người đang trực tiếp quản lý di sản thừa kế của chị Phạm Thúy P) phải có trách nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền 1.024.000.000đồng.

[12] Thứ 4: Ngoài lời trình bày của mình, bị đơn không còn có tài liệu chứng cứ nào khác thể hiện việc bị đơn nhận và chuyển số tiền 1.474.000.000đồng vào tài khoản của bị đơn đến tài khoản của Tô Văn H là do thực hiện theo ý kiến, theo yêu cầu của chị Phạm Thúy P.

[13] Từ những phân tích, đánh giá trên có đủ căn cứ pháp lý xác định số tiền 1.474.000.000đồng ngày 20-5-2021 nguyên đơn chuyển vào tài khoản số 19035545486015 của bị đơn tại Ngân hàng Techcombank Lạng Sơn là số tiền nguyên đơn cho bị đơn vay. Do đó, cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền đã vay là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Đối với số tiền lãi của số tiền gốc trên, nguyên đơn đã rút yêu cầu nên cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đã rút là đúng quy định.

[14] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch số tiền là 56.220.000đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước và hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[15] Tại cấp phúc thẩm, bị đơn không xuất trình được tài liệu chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo đã đưa ra nên kháng cáo không có căn cứ để chấp nhận. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.

[16] Đối với giao dịch tiếp theo giữa bị đơn và chị Phạm Thúy P về việc chuyển số tiền 1.474.000.000đồng nếu có tranh chấp và không đảm bảo quyền lợi thì bị đơn có quyền khởi kiện người thừa kế của chị Phạm Thúy P theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[17] Xét đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là không phù hợp với các quy định của pháp luật nên không được chấp nhận.

[18] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn là có căn cứ pháp lý và phù hợp với các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn chị Nguyễn Thị Minh H; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2022/DS-ST ngày 05-7-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Nguyễn Thị Minh H phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước. Ngày 02-8-2022, chị Nguyễn Thị Minh H đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0000966 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chị Nguyễn Thị Minh H đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 39/2022/DS-PT

Số hiệu:39/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về