Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 340/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 340/2022/DS-PT NGÀY 29/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 109/TLPT-DS ngày 15/4/2022 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, do Bản án dân sự sơ thẩm số 446/2022/DS-ST ngày 18/02/2022 của Tòa án Nhân dân thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2067/QĐ-PT ngày 30/5/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần B Trụ sở: số 130 đường C, Phường D, quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Huỳnh Công F, sinh năm 1989; địa chỉ: Số 344 Đường G, phường H, thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Lê Văn I; sinh năm: 1981; địa chỉ: Số 24/12/19 Đường J, Khu phố 3, phường K, thành phố A, Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung bản án sơ thẩm:

Ý kiến trình bày của nguyên đơn: Ngày 03/10/2008, Ngân hàng Thương mại Cổ phần B (Viết tắt là “nguyên đơn”) có nhận được hồ sơ đăng ký sử dụng thẻ tín dụng B của ông Lê Văn I (Viết tắt là “bị đơn”). Sau khi xem xét hồ sơ đăng ký cấp thẻ của bị đơn, nguyên đơn căn cứ vào điều kiện, mức thu nhập của bị đơn đồng ý ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng B cấp thẻ tín dụng cho bị đơn với hạn mức sử dụng tối đa 20.000.000 đồng, thời hạn sử dụng thẻ hai năm, mục đích tiêu dùng cá nhân. Theo quy định về mức lãi suất của Ngân hàng Thương mại Cổ phần B thì mức lãi suất đối với hạn mức thẻ được cấp là 18%/năm, lãi suất quá hạn bằng 27%/năm. Bị đơn đã nhận thẻ và thực hiện các giao dịch, thanh toán theo đúng quy định, hết hạn sử dụng thẻ bị đơn có yêu cầu gia hạn hai lần. Số tiền bị đơn giao dịch đến ngày 31/3/2013 còn nợ lại là 26.477.663 đồng. Từ ngày 31/3/2013 bị đơn ngưng sử dụng thẻ và thẻ đã hết thời hạn sử dụng nên số tiền bị đơn giao dịch được chuyển thành nợ quá hạn. Do bị đơn vi phạm thời hạn thanh toán nên Ngân hàng đã nhiều lần gửi thông báo cho bị đơn yêu cầu thanh toán nhưng bị đơn không thực hiện. Ngày 31/10/2014 ngân hàng chốt khoản tiền nợ quá hạn của bị đơn bao gồm tiền nợ gốc 26.477.663 đồng và lãi quá hạn 13.975.524 đồng, tổng cộng 40.453.187 đồng và chủ động đóng thẻ (chấm dứt hoạt động thẻ) để không phát sinh thêm các khoản phí. Từ đó đến nay bị đơn không thanh toán tiền nợ cho nguyên đơn; vì vậy nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền 148.510.951 đồng, trong đó nợ quá hạn 40.453.187 đồng, các khoản nợ phí giao dịch 9.502.574 đồng và tiền lãi quá hạn được tính đối với tiền nợ quá hạn và nợ phí là 98.555.190 đồng.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, đồng thời triệu tập bị đơn đến Toà án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nhưng bị đơn vắng mặt.

Bản án sơ thẩm số 446/2022/DS-ST ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần B về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với ông Lê Văn I;

Ông Lê Văn I có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần B số tiền 120.261.229 (Một trăm hai mươi triệu, hai trăm sáu mươi mốt nghìn, hai trăm hai mươi chín) đồng, (nợ quá hạn 40.453.187 đồng và tiền lãi quá hạn 79.808.042 đồng).

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần B đối với số tiền 28.249.722 (Hai mươi tám triệu, hai trăm bốn mươi chín nghìn bảy trăm hai mươi hai) đồng, (nợ phí 9.502.574 đồng và tiền lãi suất 18.747.147 đồng).

Về lãi suất: Ông Lê Văn I phải chịu tiền lãi phát sinh trên số tiền chưa thanh toán tính từ ngày 19/02/2022 cho đến khi thanh toán toàn bộ số tiền nợ theo lãi suất được quy định tại mục 4.2 Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng DongA Bank.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 11/3/2022, bị đơn có đơn kháng cáo cho rằng Tòa án Nhân dân thành phố A đã vi phạm thủ tục tố tụng; cụ thể: Tòa án câp sơ thẩm không tống đạt thông báo thụ lý vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa ngày 18/02/2022 cho bị đơn dẫn đến việc bị đơn không thể tham dự phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, vụ án hết thời hiệu khởi kiện; do vậy, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 446/2022/DSST ngày 18/02/2022 của Tòa án Nhân dân thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh và đình chỉ giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày ý kiến như sau: Giữa bị đơn và nguyên đơn có ký Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 2893 ngày 03/10/2008 đến ngày 14/1/2009 thì nguyên đơn mở thẻ cho bị đơn sử dụng gia hạn sử dụng thẻ 03 lần vào các ngày 20/01/2010, ngày 08/3/2011 và ngày 22/3/2012 hết hạn vào ngày 31/3/2013. Đến hạn thanh toán, bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, mặc dù nguyên đơn đã có nhiều thư nhắc nợ nên đến ngày 31/3/2013 nguyên đơn tự động khóa thẻ. Tuy nhiên, tại phiên tòa này nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc nguyên đơn có gửi thư điện tử (mail) tự động nhắc nợ và thông báo cho phía bị đơn trả nợ. Bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ ngày 31/3/2013, nhưng do tại thời điểm này phía nguyên đơn đang cơ cấu lại tổ chức, hoạt động nên đã không đi khởi kiện theo luật định. Đây là lỗi của nguyên đơn nhưng ngày 21/01/2021 nguyên đơn và bị đơn đã có Biên bản về việc thu hồi và xử lý nợ tái xác lập lại thời hiệu khởi kiện nên bị đơn phải trả lãi phát sinh cho số tiền nợ gốc mà các bên đã thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng sử dụng thẻ ngày 03/10/2008. Do vậy, nguyên đơn không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của bị đơn, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên nội dung Bản án sơ thẩm số 446/2022/DSST ngày 18/02/2022 của Tòa án Nhân dân thành phố A, Tp. Hồ Chí Minh.

Bị đơn trình bày ý kiến như sau: Bị đơn rút lại một phần nội dung yêu cầu kháng cáo cụ thể: Rút yêu cầu kháng cáo đối với việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án đối với bị đơn và thời hiệu khởi kiện đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm số 446/2022/DSST ngày 18/02/2022 của Tòa án Nhân dân thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng chấp nhận trả nợ gốc và không đồng ý trả lãi phát sinh; nguyên đơn và bị đơn có ký Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 2893 ngày 03/10/2008 như nguyên đơn trình bày nhưng việc bị đơn không trả tiền nợ gốc là do lỗi của nguyên đơn vào năm 2013 tự động khóa thẻ mà không thông cho bị đơn biết. Nguyên đơn cho rằng có thông báo bằng cách gửi mail tự động của hệ thống ngân hàng nhưng nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Chỉ đến ngày 29/10/2020 nguyên đơn mới có Thư nhắc nợ số 02/2020/B PGD Thủ Đức gửi đến hộp thư điện tử (mail) của bị đơn. Trên cơ sở đó vào các ngày 25/11/2020, ngày 21, 25, 26, 27 tháng 01 năm 2021 giữa đại diện phía nguyên đơn (bà Võ Thị Cẩm L) và bị đơn liên tục có thư qua lại; theo đó, bị đơn đã gửi ý kiến phản hồi thể hiện rõ nội dung nguyên đơn tự khóa thẻ từ năm 2013 mà không thông báo cho bị đơn biết lý do, không gửi sao kê và bị đơn yêu cầu làm rõ khoản tiền nợ gốc, không đồng ý với các khoản tiền lãi theo yêu cầu của nguyên đơn. Bị đơn cũng yêu cầu nguyên đơn làm rõ các lần rút tiền đối với số tiền nợ gốc 17.560.739 đồng và đưa ra phương án trả nợ sau khi thống nhất; tuy nhiên cho đến nay, nguyên đơn vẫn chưa làm rõ các lần rút tiền liên quan đến số tiền gốc. Đến ngày 01/02/2021, nguyên đơn gửi trực tiếp cho bị đơn Thư nhắc nợ số 01/2021/B PGD Thủ Đức. Lỗi thuộc hoàn toàn về phía nguyên đơn nên không thể buộc bị đơn phải trả tiền lãi cho phía nguyên đơn. Bị đơn chỉ đồng ý trả số tiền nợ gốc theo quy định của pháp luật vì đến nay thời hiệu khởi kiện yêu cầu trả lãi của nguyên đơn đã hết và nguyên đơn cũng thừa nhận lỗi do thay đổi cơ cấu, không đi khởi kiện đúng thời hạn luật định.

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quyền hạn, nhiệm vụ và các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý vụ án giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa.

+ Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Bị đơn thực hiện quyền kháng cáo trong thời gian luật định căn cứ Điều 273 và Điều 285 của Bộ luật Tố tụng dân sự; do vậy, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.

+ Về nội dung kháng cáo của bị đơn:

- Tại phiên tòa bị đơn rút 1 phần kháng cáo đối với các thủ tục tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm, không yêu cầu xem xét thời hiệu khởi kiện để đình chỉ giải quyết vụ án do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét các nội dung rút yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

- Đối với kháng cáo yêu cầu chỉ đồng ý trả nợ gốc, không đồng ý trả tiền lãi phát sinh có liên quan đến thời hiệu khởi kiện yêu cầu là không có căn cứ vì từ ngày 31/3/2013 bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và nợ lãi phát sinh đã được các đương sự thỏa thuận mục tại 8.3 của Hợp đồng tín dụng ngày 14/01/2009. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 446/2022/DSST ngày 18/02/2022 của Tòa án Nhân dân thành phố A, Tp. Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra và kết quả tranh tụng, ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng [1.1] Quyền và thời hạn kháng cáo: Ngày 18/02/2022, Tòa án Nhân dân thành phố A thực hiện tống đạt hợp lệ Bản án sơ thẩm số 446/2022/DSST ngày 18/02/2022 cho bị đơn đến ngày 11/3/2022, Tòa án cấp sơ thẩm nhận được Đơn kháng cáo đề ngày 09/3/2022 của bị đơn trong thời hạn và bị đơn đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định tại Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết theo trình tự phúc thẩm đối với Bản án sơ thẩm số số 446/2022/DSST ngày 18/02/2022 của Toà án Nhân dân thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh là đúng pháp luật về thẩm quyền.

[1.2] Việc xét xử vắng mặt các đương sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[1.3] Những tài liệu chứng cứ do bị đơn cung cấp bổ sung tại phiên tòa gồm:

- Nội dung thư điện tử (mail) vào các ngày 25/11/2020, ngày 21, 25, 26, 27 tháng 01 năm 2021 giữa đại diện phía nguyên đơn (bà Võ Thị Cẩm L hộp thư điện tử với tên miền tuvtc@B.com.vn) với bị đơn (hộp thư điện tử với tên miền là lelongsggp@gmail.com). - Thư nhắc nợ số 02/2020/B PGD Thủ Đức ngày 29/10/2020 (bản photo).

- Thư nhắc nợ số 01/2021/B PGD Thủ Đức ngày 01/02/2021 của B Bank (Bản chính).

- Biên bản về việc thu hồi và xử lý nợ ngày 21/01/2021 của B Bank (bản photo).

[2.] Xét kháng cáo của bị đơn đối với việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết nội dung hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng [2.1] Về số tiền nợ gốc Theo Đơn khởi kiện ngày 25/02/2021, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và trình bày của nguyên đơn, bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm cho thấy có căn cứ xác định ngày 03/10/2008 nguyên đơn và bị đơn đã ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng B số 2893 và nguyên đơn đã mở cấp thẻ tín dụng cho bị đơn với hạn mức sử dụng tối đa 20.000.000 đồng, thời hạn sử dụng thẻ 02 năm, mức lãi suất là 18%/năm, lãi suất quá hạn bằng 27%/năm. Bị đơn đã nhận thẻ và thực hiện các giao dịch, thanh toán theo đúng quy định, hết hạn sử dụng thẻ nguyên đơn đã gia hạn sử dụng thẻ cho bị đơn 03 lần vào các ngày 20/01/2010, ngày 08/3/2011 và ngày 22/3/2012 hết hạn vào ngày 31/3/2013. Đến ngày 31/3/2013, bị đơn không thanh toán số tiền nợ gốc 17.560.739 đồng và nguyên đơn tự động khóa thẻ nhưng không thông báo cho bị đơn biết. Từ ngày 01/4/2013 đến trước ngày 25/02/2021, nguyên đơn xác nhận do thay đổi cơ cấu, hoạt động nên không đi khởi kiện; đến ngày 25/02/2021 nguyên đơn mới có đơn khởi kiện tại Tòa án dẫn đến quá thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự, đây là lỗi của nguyên đơn.

Xét, nguyên đơn cho rằng nguyên đơn đã thông báo về việc ngưng sử dụng thẻ và nhiều lần gửi thư nhắc nợ vào hộp thư điện tử và bằng văn bản cho bị đơn nhưng tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh và bị đơn không thừa nhận trình bày của nguyên đơn; tuy nhiên, bị đơn thừa nhận chưa trả cho nguyên đơn số tiền 17.560.739 đồng nợ gốc theo Hợp đồng tín dụng sử dụng thẻ ngày 03/10/2008.

Theo Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”, đối chiếu quy định này thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng đã hết. Tuy nhiên, theo quy định khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong trường hợp “yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Do đó, nguyên đơn có thể khởi kiện bị đơn yêu cầu đòi lại tài sản (nợ gốc), Tòa án giải quyết không phụ thuộc vào việc các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc hay không. Do vậy, có căn cứ buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc là 17.560.739 đồng.

[2.2] Về nợ quá hạn, các khoản nợ phí giao dịch, tiền lãi quá hạn Xét, nguyên đơn khởi kiện buộc bị đơn phải trả tiền lãi và các khoản nợ phí giao dịch phát sinh theo hợp đồng tín dụng đến ngày 18/02/2022, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với các khoản nợ phí số tiền 9.502.574 đồng và 18.747.147 đồng tiền lãi là phù hợp với quy định của pháp luật vì bị đơn đã ngưng giao dịch kể từ ngày 31/3/2013.

Xét, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lãi quá hạn, cụ thể: Nguyên đơn lấy số tiền nợ gốc + lãi suất trong hạn (đến ngày 31/3/2013) để xác định nợ gốc quá hạn và yêu cầu bị đơn phải trả số tiền là 26.477.663 đồng; từ đó xác định số dư nợ gốc là 40.453,187 đồng và tiền phí phạt chậm thanh toán 9.502.574 đồng từ ngày 31/3/2013 đến ngày 31/10/2014; đồng thời xác định số dư nợ gốc là số tiền 49.955.761 đồng, từ đó yêu cầu bị đơn phải chịu lãi suất từ ngày 01/11/2014 đến ngày 18/02/2022 số tiền 98.555.190 đồng là không có căn cứ, bởi lẽ: Các tài liệu chứng cứ mới do bị đơn cung cấp bổ sung và được nguyên đơn thừa nhận tại phiên tòa phúc thẩm thể hiện, ngày 29/10/2020 nguyên đơn có Thư nhắc nợ số 02/2020/B PGD Thủ Đức gửi đến hộp thư điện tử (mail) của bị đơn, đến ngày 25/11/2020 và các ngày 21, 25, 26, 27 tháng 01 năm 2021 giữa đại diện phía nguyên đơn (bà Võ Thị Cẩm L) và bị đơn liên tục có thư qua lại thể hiện bị đơn đã gửi ý kiến phản hồi về việc nguyên đơn tự khóa thẻ từ năm 2013 mà không thông báo cho bị đơn biết lý do, không gửi sao kê và bị đơn yêu cầu nguyên đơn làm rõ khoản tiền nợ gốc, không đồng ý với các khoản tiền lãi theo yêu cầu của nguyên đơn. Mặt khác, xét nguyên đơn cho rằng Biên bản về việc thu hồi và xử lý nợ ngày 21/01/2021 thể hiện thời hiệu khởi kiện đã được tái xác lập lại vì bị đơn thừa nhận nợ nên bị đơn phải trả lãi phát sinh cho số tiền nợ gốc là không có căn cứ vì Biên bản về việc thu hồi và xử lý nợ ngày 21/01/2021 chỉ có nội dung thể hiện bị đơn đồng ý trả số tiền nợ gốc 17.560.739 đồng sau khi nguyên đơn làm rõ các lần rút tiền đối với số tiền nợ gốc và không đồng ý trả số tiền lãi phát sinh và các khoản phí theo yêu cầu của nguyên đơn. Đây là những tình tiết mới phát sinh làm căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn về việc sửa Bản án sơ thẩm số 446/2022/DS-ST ngày 18-02-2022 của Toà án Nhân dân thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh đối với yêu cầu về lãi của nguyên đơn; đồng thời, như đã phân tích các quy định tại Điều 429 và khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại mục [2.1] ở trên cho thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh buộc bị đơn phải trả tiền lãi, nợ phí chậm thanh toán và lãi quá hạn số tiền (148.510.951 đồng- 17.560.739 đồng) = 130.950.212 đồng.

[4] Đối với các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Toà án cấp phúc thẩm không xem xét.

[5] Về án phí Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì bị đơn phải chịu án phí án dân sự sơ thẩm đối với số tiền 17.560.739 đồng. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm đối với số tiền 130.587.771 đồng không được chấp nhận.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Bản án sơ thẩm bị sửa do kháng cáo của bị đơn được chấp nhận nên bị đơn kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 308 và Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 155, Điều 429 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015

Căn cứ Nghị quyết 326/2016UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật thi hành án dân sự.

Tuyên xử: Chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn I 1. Sửa Bản án sơ thẩm số 446/2022/DS-ST ngày 18/02/2022 của Toà án Nhân dân thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh; cụ thể như sau:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần B Buộc ông Lê Văn I có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần B số tiền nợ gốc 17.560.739 (Mười bảy triệu, năm trăm sáu mươi nghìn, bảy trăm ba mươi chín) đồng.

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần B buộc ông Lê Văn I phải trả số tiền nợ phí 9.502.574 đồng và tiền lãi 121.447.638 đồng, tổng cộng 130.950.212 (Một trăm ba mươi triệu, chín trăm năm mươi nghìn, hai trăm mười hai) đồng.

Kể từ ngày bên có quyền có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí:

3.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Lê Văn I phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 878.037 (Tám trăm bảy mươi tám nghìn, không trăm ba mươi bảy) đồng tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

- Ngân hàng Thương mại Cổ phần B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 6.547.511 (Sáu triệu, năm trăm bốn mươi bảy nghìn, năm trăm mười một) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.692.853 (Một triệu, sáu trăm chín mươi hai nghìn, tám trăm năm mươi ba) đồng theo Biên lai thu số 0058916 ngày 30/3/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố A, Tp. Hồ Chí Minh.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần B còn phải nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 4.854.658 (Bốn triệu, tám trăm năm mươi bốn nghìn, sáu trăm năm mươi tám) đồng tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Văn I không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo của ông Lê Văn I được chấp nhận dẫn dến sửa bản án sơ thẩm.

Trả lại số tiền 300.000 đồng cho ông Lê Văn I theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0026262 ngày 18/3/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Thi hành án tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

430
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 340/2022/DS-PT

Số hiệu:340/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về