Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 315/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 315/2023/DS-PT NGÀY 11/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 11/4/2023 và ngày 11/7/2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 08/2023/TLPT-DS ngày 03 tháng 02 năm 2023 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 63/2022/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Sa Đéc bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 130/2023/QĐ-PT ngày 28 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị L, sinh năm 1972. (Có mặt) Địa chỉ: Số 101, tổ 57, đường K, khóm Mỹ Thuận, phường Mỹ Phú, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là: Luật sư phạm Hoàng Đ – Công ty luật hợp danh Anh Em Luật sư chi nhánh Đồng Tháp – thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 70, Quốc lộ 30, phường Mỹ Phú, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp;

2. Bị đơn:

2.1. Công ty TNHH xăng dầu C.

Trụ sở: Số 418A, khóm M, phường Tân Quy Đ, thành phố Sa Đéc, tỉnh đồng Đồng Tháp.

Người đại diện theo pháp luật là: Bà Nguyễn U – Chức vụ: Giám đốc;

Địa chỉ: Số 418A, khóm M, phường Tân Quy Đ, thành phố Sa Đéc, tỉnh đồng Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn U là chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1999; (Có mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn U là Luật sư Lê Văn L -Văn phòng Luật sư T - chi nhánh huyện Tháp Mười, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp. (Xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số 17B, đường L, khóm 3, thị trấn A, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.

2.2. Chị Nguyễn Nguyệt Tuyết  N, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Số 418A, khóm M, phường Tân Quy Đ, thành phố Sa Đéc, tỉnh đồng Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Nguyệt Tuyết N là chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1999; (Có mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Nguyệt Tuyết N là Luật sư Lê Văn L - Văn phòng Luật sư T - chi nhánh huyện Tháp Mười, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp. (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 17B, đường L, khóm 3, thị trấn A, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.

- Người kháng cáo: Chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N là bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Nguyên đơn bà Lê Thị L trình bày:

Bà L cho Công ty TNHH xăng dầu C (viết tắt Công ty C) đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U- Giám đốc vay tiền nhiều lần cụ thể:

- Lần 1: Ngày 09/10/2019 bà L cho Công ty xăng dầu C vay số tiền 1.540.000.000 đồng, khi vay bà Nguyễn U là người đại diện pháp luật của Công ty có viết biên nhận ký tên, đóng dấu Công ty ngày 09/10/2019.

- Lần 2: Ngày 12/11/2019 bà U đại diện Công ty vay số tiền 70.000.000 đồng. đồng.

- Lần 3: Ngày 19/11/2019 bà U đại diện Công ty vay số tiền 130.000.000 Lần vay thứ 2 và thứ 3 bà U viết biên nhận gộp chung ghi ngày 19/11/2019 và Út ký tên, đóng dấu Công ty.

- Lần 4: Ngày 02/10/2020 bà U đại diện Công ty vay thêm số tiền 260.000.000 đồng lần này bà U không có viết biên nhận. Tổng cộng, bà U vay tiền của bà L 04 lần số tiền 02 tỷ đồng. Cùng ngày 02/10/2020 chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N (là con gái của bà U) đứng ra viết tờ cam kết bảo lãnh trả thay bà U số tiền 02 tỷ đồng trong 30 ngày (từ ngày 02/10/2020).

Giấy biên nhận ngày 09/10/2019 và ngày 19/11/2019 do bà U viết nội dung, ký tên, ghi họ tên Nguyễn U. Tờ cam kết ngày 02/10/2020 do chị N viết nội dung, ký tên, ghi họ tên Nguyễn Nguyệt Tuyết N.

Khi vay bà U nói để góp vốn điều lệ cho Công ty xăng dầu C, lãi suất thỏa thuận miệng 3%/tháng, thời hạn vay 02 tháng, vay không có thế chấp tài sản.

Việc bà L cho bà U vay tiền có bà Phạm Thị Lý, sinh năm 1967. Địa chỉ: 199 đường Trương Hán Siêu, khóm Mỹ Tây, phường Mỹ Phú, Tp. Cao Lãnh, Đồng Tháp biết, chứng kiến.

Sau khi vay bà U và chị N không có trả vốn, nhưng có lãi đến ngày 15/5/2020 thì ngưng, số tiền lãi bao nhiêu bà L không nhớ.

Nay bà L yêu cầu Công ty TNHH xăng dầu C (bà Nguyễn U – Giám đốc) và bà Nguyễn nguyệt Tuyết N liên đới trả số tiền nợ vay vốn 2.000.000.000 đồng và lãi suất tạm tính từ ngày 15/5/2020 đến ngày 15/8/2022 là 27 tháng, với mức lãi 0,83%/tháng như sau:

Số tiền 2.000.000.000đ x 0,83% x 27 tháng = 448.200.000 đồng.

Tổng cộng vốn và lãi 2.448.200.000 đồng (trong đó, vốn 02 tỷ đồng, lãi 448.200.000 đồng). Ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.

- Bị đơn công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật bà Nguyễn U) và chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N:

Mặc dù Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho bà U, chị N, nhưng không có văn bản trình bày ý kiến và không đến tham dự phiên tòa.

Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2022/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Sa Đéc quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 463, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị L về việc yêu cầu Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và bà Nguyễn Nguyệt Tuyết N liên đới trách nhiệm trả số tiền vốn, lãi là 2.488.200.000 đồng.

- Buộc Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và bà Nguyễn Nguyệt Tuyết N liên đới trách nhiệm trả cho bà Lê Thị L số tiền vốn 2.000.000.000 đồng và lãi 488.200.000 đồng. Tổng cộng, vốn và lãi 2.488.200.000 đồng .

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Lê Thị L được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 40.826.000 đồng theo biên lai số 0000828 ngày 27/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc.

Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và bà Nguyễn Nguyệt Tuyết N nộp 81.764.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về chi phí giám định: Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và bà Nguyễn Nguyệt Tuyết N nộp tiền chi phí giám định là 13.290.000 đồng để hoàn trả cho bà Lê Thị L (bà L đã tạm ứng và chi xong).

Đồng thời trong bản án còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm. Lý do chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N không nhận được văn bản tố tụng của Tòa án để chị tham gia giải quyết vụ án; đồng thời chị N chỉ viết biên nhận mượn tiền của bà L chứ không có vay tiền. Sau khi mượn tiền có trả được cho bà L số tiền 1.000.000.000 đồng nên đề nghị xem xét đúng lại theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm bà Lê Thị L, Luật sư Phạm Hoàng Đ; Chị Nguyễn Thị N là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn U giám đốc của Công ty trách nhiệm hữu hạn xăng dầu C, đồng thời chị Nguyễn Thị N cũng là người đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N có mặt và khẳng định đã xuất trình thêm đầy đủ chứng cứ cho Tòa án giải quyết vụ án.

Luật sư Lợi xin vắng mặt và có văn bản trình luận cứ : Việc vay tiền 2.000.000.000 đồng hai bên không có thỏa thuận lãi suất; chị N đã gửi trả được số tiền là 219.213.000 đồng; chỉ còn lại 1.780.787.000 đồng. Đồng thời phải tính thời điểm tính lãi suất từ ngày Tòa án thụ lý giải quyết vụ án tức ngày 27/5/2022 với mức lãi suất 0,83%/tháng; nên đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm.

Chị N cung cấp thêm các phiếu chuyển tiền chị Tuyết N gửi trả tiền cho bà L; bà L cũng cung cấp tờ tường trình và các đương sự thống nhất với nhau:

- Ngày 11/11/2019, chị N chuyển khoản gửi trả số tiền 46.200.000 đồng.

- Ngày 17/12/2019, chị N chuyển khoản đóng gửi trả số tiền là 60.000.000 đồng.

- Ngày 16/01/2020, chị N chuyển khoản đóng gửi trả số tiền là 20.000.000 đồng.

- Ngày 20/02/2020, chị N chuyển khoản đóng gửi trả số tiền là 63.000.000 đồng.

- Tháng 3/2020, chị N đưa tiền mặt trả số tiền là 52.200.000 đồng - Tháng 4/2020, chị N đưa tiền mặt trả số tiền là 52.200.000 đồng.

- Tháng 5/2020, chị N đưa tiền mặt trả số tiền là 52.200.000 đồng.

- Tháng 6/ 2020, chị N đưa tiền mặt trả số tiền là 52.200.000 đồng. Tổng số tiền chị N gửi trả cho bà L là 411.600.000 đồng.

Theo bà L cung cấp tờ tường trình và trình bày tại phiên tòa phúc thẩm đây là số tiền gửi trả tiền lãi được tính trên số tiền vốn vay thiếu chưa trả với mức lãi suất 3%/tháng. Nay bà L đồng ý khấu trừ số tiền này vào vốn và lãi vay được tính với mức lãi suất 0.83%/tháng mà Công ty C và chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N phải trả cho bà L.

- Luật sư Phạm Hoàng Đ trình bày: Việc chị Tuyết N trình bày trả số tiền 1.000.000.000 đồng là không có căn cứ vì không có chứng cứ chứng minh. Qua việc thừa nhận số tiền của bà L có nhận số tiền là 411.600.000 đồng. Bà L đồng ý điều chỉnh với số tiền vốn và lãi bà L đã cho vay và tiền lãi đã nhận theo quy định pháp luật với mức lãi suất 0.83%/tháng. Bà L thống nhất yêu cầu bị đơn trả cho bà L số tiền vốn và lãi đến ngày 15/8/2020 là 2.108.821.000 đồng.

- Bà Lê Thị L thống nhất với các yêu cầu của Luật sư đã trình bày.

- Chị Nguyễn Thị N trình bày: Thừa nhận số tiền Công ty C vay tiền và số tiền gửi trả cho bà L là đúng với số tiền lãi phải trả 3% như bà L tính. Nhưng chị Tuyết N chỉ đồng ý trả số tiền vốn cho bà L vì chị Tuyết N không phải vay tiền của bà L mà chỉ hỏi mượn tiền. Số tiền 2.000.000.000 đồng vay sẽ được trừ vào số tiền bà L đã thừa nhận của chị Tuyết N trả.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đúng theo quy định. Về nội dung giải quyết vụ án đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thành phần những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng thì các đương sự thống nhất không có ai có yêu cầu bổ sung hay khiếu nại.

[2] Về nội dung hợp đồng vay tiền giữa các đương sự tranh chấp nguyên đơn bà Lê Thị L về việc yêu cầu Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U), chị Nguyễn Nguyệt Tuyến N trả số tiền vốn và lãi cho bà L là 2.448.200.000 đồng. Qua các biên nhận Công ty C (do bà U đại diện) có vay tiền của bà L và có viết biên nhận ngày 09/10/2019 và ngày 19/11/2019 ký tên, ghi họ tên Nguyễn U và đóng dấu Công ty. Đến ngày 02/10/2020 chị N là con gái của bà U viết tờ cam kết bảo lãnh trả nợ thay cho bà U.

Về phía bị đơn Công ty C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và chị N không có văn bản trình bày ý kiến và không tham gia giải quyết vụ án.

[3] Tòa án cấp sơ thẩm qua thu thập chứng cứ xét: Biên nhận ngày 09/10/2019 và ngày 19/11/2019 cùng tờ cam kết ngày 02/10/2020 bà L cung cấp thể hiện nội dung bà U với Chức vụ Giám đốc (đại diện Công ty xăng dầu C) có vay của bà L số tiền tổng cộng 2.000.000.000 đồng và chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N cam kết trả nợ thay cho bà U trong vòng 30 ngày kể từ ngày 02/10/2020.

Bà U, chị N đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án hợp lệ theo địa chỉ đang sinh sống tại số 418A, khóm M, phường Tân Quy Đ, thành phố Sa Đéc nhưng bà U, chị N vẫn không có ý kiến gì về việc vay tiền cũng như biên nhận ngày 09/10/2019, ngày 19/11/2019 và tờ cam kết ngày 02/10/2020 của bà L xuất trình. Như vậy, bà U, chị N biết việc bà L khởi kiện tranh chấp nhưng bà U, chị N từ chối quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong việc giải quyết vụ án.

[3.1] Xét lời trình bày của người làm chứng xác định việc Công ty C (do bà U đại diện) vay tiền của bà L thì bà Lý biết và có ký tên người chứng kiến trong biên nhận ngày 09/10/2019. Như vậy, lời trình bày của bà Lý phù hợp với ý kiến của nguyên đơn.

Mặt khác, căn cứ kết luận giám định số 755/KL-KTHS ngày 05/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp thể hiện:

- Chữ ký, chữ viết họ tên Nguyễn U trong tờ biên nhận đề ngày 09/10/2019 được ký hiệu A2 và chữ ký tên Nguyễn U trong biên nhận đề ngày 19/11/2019 được ký hiệu A3 so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn U trên các tài liệu mẫu là do cùng một người ký, viết ra.

- Chữ ký, chữ viết họ tên Nguyễn Nguyệt Tuyết N trong tờ cam kết đề ngày 02/10/2020 được ký hiệu A1 so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Nguyệt Tuyết N trên các tài liệu mẫu là do cùng một người ký, viết ra.

Qua đó, có đủ căn cứ chứng minh Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) có vay số tiền trên của bà L. Đối với bà N, sau khi Công ty C vay tiền của bà L thì vào ngày 02/10/2020 chị N viết cam kết bảo lãnh trả khoảng nợ trên cho bà L trong vòng 30 ngày, nhưng chị N không thực hiện nên bà L yêu cầu Công ty TNHH xăng dầu C và chị N liên đới trả số tiền vốn vay 2.000.000.000 đồng là có cơ sở chấp nhận.

[3.2] Về lãi suất: Qua xác định Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà U) và chị N có vay tiền của bà L và theo bà L quá trình vay bà U, chị N có trả lãi cho bà L đến ngày 15/5/2020 thì ngưng trả lãi nên bà L yêu cầu bà U, chị N trả lãi theo mức lãi 0,83%/tháng, tính từ ngày 15/5/2020 đến ngày 15/8/2022 là 27 tháng được tính: Số tiền 2.000.000.000đ x 0,83% x 27 tháng = 448.200.000 đồng.

Nên buộc Công ty C và chị N trả số tiền lãi là 448.200.000 đồng theo quy định pháp luật.

[4] Đồng thời căn cứ vào đây để quyết định về án phí, chi phí tố tụng theo quy định pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm nên kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét tính lại số tiền tính lãi đã trả cho bà L.

[5] Xét kháng cáo những trình bày và chứng cứ chứng minh của chị N nêu ra được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét giải quyết theo quy định pháp luật. Chị N kháng cáo yêu cầu xem xét lại số tiền đã trả qua các phiếu chuyển tiền cho bà L nhận.

Qua thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm các nhận định của Tòa án sơ thẩm với lời khai các đương sự. Xác định chị N trình bày không được Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về việc giải quyết vụ án là không đúng vì qua thẩm tra tại phiên tòa xác định chị Tuyết N vẫn còn sinh sống theo địa chỉ do nguyên đơn bà L cung cấp khởi kiện vụ án và trong quá trình giải quyết vụ án. Chị Tuyết N đồng ý trả số tiền với Công ty C. Nhưng chị Tuyết N cho rằng số tiền này là tiền mượn không có tiền lãi nên chỉ đồng ý trả số tiền vốn còn lại cho bà L sau khi đã trừ đi số tiền của chị N và công ty C đã trả cho bà L. Xét lời trình bày này của chị N là không có cơ sở chấp nhận vì bà L và chị N không có quan hệ quen biết trước khi thực hiện hợp đồng vay với nhau. Chỉ quen biết thông qua chị Lý để cho vay tiền; số tiền chị N gửi qua các lần chuyển khoản phù hợp với số tiền vốn thiếu do bà L tính toán với lãi suất là 3% trên tháng giữa hai bên; nên xác định 441.600.000 đồng là thanh toán tiền lãi giữa hai bên.

Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự thống nhất về cách khấu trừ số tiền lãi và tiền vốn vay thời gian với mức lãi suất 0,83% trên tháng. Tổng cộng số tiền vốn và lãi Công ty C và chị Tuyết N thiếu đến ngày 15/8/2022 vốn là 1.773.000.664 đồng và tiền lãi 335.175.000.502 đồng; tổng cộng 2.108. 821.718 đồng (lấy số chẵn là 2.108.821.000 đồng). Bà L yêu cầu Công ty C và chị Tuyết N liên đới trả số tiền 2.108.821.000 đồng là có căn cứ chấp nhận theo quy định pháp luật Đại diện Viện kiểm sát đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm là phù hợp pháp luật nên chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định sửa một phần bản án sơ thẩm. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N được chấp nhận một phần nên án phí phúc thẩm chị N không phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 147,148, khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N.

- Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 63/2022/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Sa Đéc.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị L về việc yêu cầu Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N liên đới trách nhiệm trả số tiền vốn, lãi là 2.108.821.000đồng.

2. Buộc Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N liên đới trách nhiệm trả cho bà Lê Thị L số tiền tổng cộng, vốn và lãi 2.108.821.000 đồng .

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Lê Thị L được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 40.826.000 đồng theo biên lai số 0000828 ngày 27/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc.

Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và bà Nguyễn Nguyệt Tuyết N nộp 74.176.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về chi phí giám định: Công ty TNHH xăng dầu C (đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn U) và bà Nguyễn Nguyệt Tuyết N nộp tiền chi phí giám định là 13.290.000 đồng để hoàn trả cho bà Lê Thị L (bà L đã tạm ứng và chi xong).

4. Án phí dân sự phúc thẩm:

Chị Nguyễn Nguyệt Tuyết N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. chị N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0001146, ngày 14/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 315/2023/DS-PT

Số hiệu:315/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về