Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 31/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 31/2023/DS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 107/2023/TLST-DS ngày 18 tháng 10 năm 2023 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2023/QĐXXST-DS, ngày 01 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Tú D, sinh năm 1959. Địa chỉ: số 37, đường H, khu phố N, phường S, thành phố T, tỉnh G, có mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Hồng H, sinh năm 1971. Địa chỉ: số 24, đường C, khu phố M, phường S, thành phố T, tỉnh G, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11/9/2023 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Huỳnh Tú D trình bày: Vào ngày 27/6/2022 âm lịch bà có cho bà Nguyễn Hồng H vay số tiền 200.000.000 đồng, vay không có thời hạn khi nào bà cần lấy lại tiền thì bà thông báo cho bà H biết trước một tháng, lãi suất thỏa thuận là 8.000.000 đồng/tháng. Bà H đã trả tiền lãi cho bà bằng tiền mặt được 04 tháng là 32.000.000 đồng và 04 tháng khấu trừ vào tiền nợ hụi thì không trả nữa. Do chồng bà bệnh nặng mỗi tháng phải chi tiền thuốc trên 60.000.000 đồng, bà có yêu cầu bà H trả lại số tiền trên nhưng bà H không trả nên bà khởi kiện yêu cầu bà H trả lại số tiền 200.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi. Trong quá trình cho bà H mượn tiền thì bà có tham gia chơi hụi với bà H và còn nợ bà H tiền hụi là 63.800.000 đồng, ngày 13/3/2023 bà có nhắn tin cho bà H trừ tiền nợ hụi vào số tiền 200.000.000 đồng. Nay bà xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện và yêu cầu bà H trả lại tiền gốc là 136.200.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Nguyễn Hồng H trình bày: Vào ngày 27/6/2022 âm lịch bà có mượn của bà Huỳnh Tú D số tiền 200.000.000 đồng, tiền lãi hàng tháng là 8.000.000 đồng, bà đã đóng được 08 tháng, trong đó đưa tiền mặt cho bà D 04 tháng là 32.000.000 đồng và 04 tháng trừ vào tiền hụi mà bà D có tham gia chơi hụi với bà. Ngày 13/3/2023, bà D có nhắn tin cho bà kêu trừ tiền nợ hụi 63.800.000 đồng vào số tiền 200.000.000 đồng, bà thừa nhận còn nợ bà D tiền gốc là 136.200.000 đồng, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên xin trả hàng tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ và không yêu cầu Tòa án xem xét lại những khoản tiền lãi đã đóng cho bà D.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu về việc tuân theo tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, đương sự thực hiện đúng trình tự quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các bên đương sự và quá trình tranh luận tại phiên tòa. Xét thấy, ngày 27/6/2022 âm lịch bà Nguyễn Hồng H có vay của bà Huỳnh Tú D số tiền 200.000.000 đồng, đến ngày 13/3/2023 các bên thống nhất trừ tiền nợ hụi mà bà D còn nợ bà H là 63.800.000 đồng vào số tiền 200.000.000 đồng nên bà H còn nợ bà D số tiền 136.200.000 đồng. Tại phiên tòa, bà H thừa nhận nợ và xin trả mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ nhưng bà D không đồng ý nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D, buộc bà H trả cho bà D số tiền 136.200.000 đồng, ghi nhận ý kiến của bà D không yêu cầu tính lãi và đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của bà D.

Về án phí buộc bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và trả lại cho bà D tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày của bị đơn và căn cứ khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố Tụng dân sự và Điều 463 Bộ luật dân sự, vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Trong vụ án này bị đơn bà Nguyễn Hồng H cư trú tại khu phố M, phường S, thành phố T, tỉnh G nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H.

[2] Về nội dung vụ án: Vào ngày 27/6/2022 âm lịch bà Nguyễn Hồng H có vay của bà Huỳnh Tú D số tiền 200.000.000 đồng, đến ngày 13/3/2023 các bên đương sự thống nhất trừ tiền nợ hụi 63.800.000 đồng vào số tiền 200.000.000 đồng nên bà H còn nợ bà D số tiền 136.200.000 đồng, bà D yêu cầu bà H trả nợ nhưng bà H không trả nên phát sinh tranh chấp. Tại phiên tòa, bà Nguyễn Hồng H thừa nhận còn nợ bà Huỳnh Tú D số tiền 136.200.000 đồng đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Phía bà H xin trả mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ nhưng bà D không đồng ý nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin trả dần của bà H. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Tú D là hoàn toàn tự nguyện nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 3 Điều 218, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với số tiền 63.800.000 đồng. Do bà H không yêu cầu xem xét lại tiền lãi đã đóng cho bà D nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Buộc bà Nguyễn Hồng H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại cho bà Huỳnh Tú D số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 463, Điều 465 và Điều 466 Bộ luật dân sự;

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 3 Điều 218 và khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Tú D, buộc bà Nguyễn Hồng H thanh toán cho bà Huỳnh Tú D số tiền 136.200.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Tú D đối với số tiền 63.800.000 đồng.

3. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Huỳnh Tú D không yêu cầu tính lãi.

4. Về án phí: Buộc bà Nguyễn Hồng H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 6.810.000 đồng.

Trả lại cho bà Huỳnh Tú D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng theo biên lai thu số 0001537 ngày 18 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh G.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 31/2023/DS-ST

Số hiệu:31/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về