Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 30/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 30/2024/DS-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 281/2023/TLST-DS ngày 13 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2024/QĐXXST-DS ngày 02/02/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kiều D, sinh năm 1976 Địa chỉ: số A, ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1983 Địa chỉ: số A, tổ B, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị H, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Địa chỉ: số A, tổ B, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Bà Trần Thị Kiều D trình bày:

Trước đây tôi có nhiều lần cho ông T mượn tiền nhưng không có viết biên nhận. Đến ngày 22/3/2018 tôi đòi thì ông T năn nỉ và viết biên nhận nợ cho tôi số tiền 230.000.000 đồng, xin đóng lãi 5%/tháng, thời hạn 01 năm, nếu ông T không thực hiện thì tôi lấy tài sản trừ nợ. Khoảng 05 tháng sau kể từ ngày viết biên nhận ông T không đóng tiền lãi nên tôi đến nhà thì căn nhà đã bị giải tỏa, tôi điện thoại không liên lạc được.

Nay tôi yêu cầu ông Nguyễn Hữu T phải trả cho số tiền nợ gốc 230.000.000đ và lãi suất 12%/năm, nhưng chỉ tính tính từ ngày 22/3/2018 cho đến ngày 22/9/2023 là 05 năm 06 tháng số tiền lãi 126.500.000đ. Tổng cộng vốn, lãi là 356.500.000đ.

Từ khi viết biên nhận nợ cho tôi mỗi tháng ông T có trả cho tôi số tiền mỗi tháng là 1.000.000đồng trong thời gian 05 năm được số tiền 60.000.000đồng. Từ ngày 30/4/2023 đến nay ông T không trả thêm cho tôi số tiền nào khác. Tôi đồng ý trừ số tiền 60.000.000 đồng T trả cho tôi là tiền vốn gốc.

Nay tôi khởi kiện yêu cầu Nguyễn Hữu T trả tôi số tiền 170.000.000 đồng và yêu cầu ông T trả tiền lãi với lãi suất là 12%/năm từ ngày 22/3/2018 đến ngày 02/02/2024 thành số tiền là 108.000.000 đồng.

Bị đơn anh Nguyễn Hữu T trình bày:

Theo lời trình bày của bà D thì tôi có viết biên nhận nợ số tiền 230.000.000 đồng của bà D. Từ khi viết giấy nhận nợ cho bà D mỗi tháng tôi có trả cho bà D một triệu đồng với số tiền 60.000.000 đồng. Tôi yêu cầu bà D phải trừ số tiền tôi đã trả trước đây. Khi viết biên nhận bà D nói không nhận lãi nay D yêu cầu tôi trả lãi thì tôi không đồng ý trả lãi.

Nay bà D khởi kiện yêu cầu tôi trả số tiền 170.000.000 đồng và yêu cầu tiền lãi số tiền 108.000.000đồng. Tôi đồng ý trả số tiền vốn gốc là 170.000.000 đồng. Đối với số tiền lãi 108.000.000 đồng thì tôi không đồng ý trả.

- Ý kiến nguyên đơn tại tòa: Ông T nợ tôi nhiều lần với nhiều biên nhận, có biên nhận bà H ký tên đến ngày 24/3/2018 ông T làm biên nhận chốt lại số nợ là 230.000.000 đồng, với lãi suất 5%/ tháng. Ông T không trả cho tôi mà trả mỗi tháng 1.000.000đồng đến tháng 3/2023 ông T không trả tiếp. Nay tôi yêu cầu ông T, bà H trả cho tôi 170.000.000đồng và phải trả lãi cho tôi 12%/ năm từ ngày 22/3/2023 đến nay là 06 năm tiền lãi là 108.000.000đồng. Hôm nay tại toà tôi yêu cầu lãi suất là 10% theo quy định của pháp luật, số tiền lãi là 102.000.000đồng tôi chỉ lấy 100.000.000đồng, sau ngày xét xử nếu ông T, bà H không trả thì phải tiếp tục trả lãi cho tôi đến khi trả nợ xong. Khi mượn tiền của tôi thì T mượn nhiều lần để làm xe cần cẩu. Đến 22/3/2018 thì chốt nợ tiền vốn là 230.000.000đồng chứ không có lãi. Sau ngày xét xử tôi chỉ yêu cầu tính lãi 10%/năm trên số tiền 170.000.000đồng.

- Bị đơn ông T trình bày: Tôi vay tiền của bà D nhiều lần đến ngày 22/3/2018 tôi đã làm biên nhận nợ 230.000.000đồng lãi suất 5% trên tháng nhưng tôi chỉ trả cho D mỗi tháng 1.000.000 đồng tổng cộng đến năm 2023 là 60.000.000đồng, chứ tôi không có trả lãi. Nay tôi đồng ý trả 170.000.000đồng với điều kiện mỗi tháng 1.000.000đồng. Còn tiền lãi tôi không đồng ý trả khi vay tiền bà D là để tôi làm ăn cho gia đình, làm cần cẩu, xáng cạp sau đó bị lỗ nên tôi đã bán xe cẩu để trả nợ cho bà D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ tranh chấp về tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được quy định tại khoản 3 điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bà H đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa ông T thừa nhận biên nhận nợ đến ngày 22/3/ 2018, số tiền 230.000.000đồng là do ông viết và ký tên. Do đó, có căn cứ để xác định ông T có nợ bà Duyên số tiền trên. Bà D yêu cầu 170.000.000đồng vì sau ngày 22/3/2018 ông T có trả dần cho bà nhiều lần đến năm 2023 là 60.000.000đồng. Ông T đồng ý trả cho bà D 170.000.000đồng. Do đó, khoản tiền vốn vay 170.000.000đồng bà D đòi là có căn cứ. Đối với yêu cầu tính tiền lãi của bà D cho khoảng thời gian ông T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đến hôm nay là 05 năm 11 tháng 20 ngày với lãi suất 10%/năm là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại tòa bà D yêu cầu tiền lãi 100.000.000 đồng là có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về nghĩa vụ trả nợ: ông T thừa nhận việc vay tiền của bà D là để mua xe, máy phục vụ cho việc làm ăn chung trong gia đình. Bà Nguyễn Thị H là vợ của ông T do đó bà D yêu cầu vợ chồng ông T phải có nghĩa vụ trả nợ là phù hợp với quy định, vì đây là số nợ trong thời kỳ hôn nhân nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí tính như sau: 170.000.000 đồng + 100.000.000đồng x 5% = 13.500.000 đồng Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 466; 468; 357; 463; 351; 288 Bộ luật dân sự ;

Căn cứ Điều 26 ; Điều 147 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1/ Buộc ông Nguyễn Hữu T và bà Nguyễn Thị H liên đới hoàn trả cho bà Trần Thị Kiều D 170.000.000 đồng tiền vốn vay và 100.000.000 đồng tiền lãi suất.

2/ Về án phí: Buộc ông Nguyễn Hữu T và bà Nguyễn Thị H nộp 13.500.000đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Trần Thị Kiều D 8.912.000đồng tạm ứng án phí theo lai thu số 0000555 ngày 13/11/2023.

3/ Sau ngày xét xử sơ thẩm, trường hợp bà H, ông T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì hàng tháng phải chịu lãi suất đối với số tiền 170.000.000đồng cho đến khi trả hết số tiền 170.000.000đồng. Lãi suất được quy định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự

4/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5/ Án xử sơ thẩm công khai đương sự có mặt tại phiên toà, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 30/2024/DS-ST

Số hiệu:30/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về