Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 301/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 301/2022/DS-PT NGÀY 06/12/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 12 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 216/2022/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 228/2022/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 261/2022/QĐ-PT ngày 18 tháng 10 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đặng Văn Đ, sinh năm 1947;

Địa chỉ: ấp T, xã X, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng Th, sinh năm 1983 (có mặt);

Địa chỉ: 244/2 Tổ T, ấp T, xã T, huyện C2, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1963;

Địa chỉ: ấp T1, xã X, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Anh Đoàn Thanh L, sinh năm 1992 (có mặt);

Địa chỉ: ấp M, xã H, huyện C3, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Thị Đ1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm;

Nguyên đơn cũng như đại diện ủy quyền của nguyên đơn chị Lê Thị Hồng Th trình bày:

Do quen biết từ trước nên vào ngày 11/8/2017 âm lịch, ông Đ có cho bà Đ1 vay số tiền 90.000.000 đồng để làm vốn kinh doanh, thỏa thuận lãi suất là 3%/tháng, khi nào ông Đ cần lấy lại tiền thì sẽ báo bà Đ1 biết trước 01 tháng. Khi vay tiền thì bà Đ1 có viết, ký tên vào biên nhận nợ.

Biên nhận nợ ngày 11/8/2017 âm lịch do chính tay bà Đ1 viết và ký tên. Ở nhà ông Đ thứ 9 nên thường gọi là “Chính Đ”.

Từ khi vay tiền đến ngày 01 tháng 12 năm 2018 dương lịch, bà Đ1 chỉ trả cho ông Đ 1.000.000 đồng tiền vốn, không trả lãi. Do bà Đ1 không đóng lãi nên cũng vào ngày 01 tháng 12 năm 2018 dương lịch, ông Đ yêu cầu bà Đ1 trả lại số tiền đã vay nhưng bà Đ1 nhiều lần hứa hẹn mà không chịu thực hiện trả nợ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Đ.

Nay ông Đ khởi kiện yêu cầu bà Đ1 phải trả cho ông số tiền vốn vay là 89.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất 1,66%/tháng tính từ ngày 01/01/2019 dương lịch đến ngày Tòa án xét xử, tạm tính đến ngày 01/01/2022 dương lịch là 36 tháng tương đương số tiền 36 tháng × 1,66% x 89.000.000 đồng = 53.186.400 đồng, yêu cầu trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn cũng như đại diện ủy quyền của bị đơn anh Đoàn Thanh L trình bày:

Tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Đại diện ủy quyền của nguyên đơn chị Lê Thị Hồng Th trình bày: ông Đ khởi kiện bà Đ1 vì bà Đ1 vay tiền của ông Đ nhưng không trả, ông Đ đã đưa cho bà Đ1 đủ số tiền vay 90.000.000 đồng và bà Đ1 có làm biên nhận cho ông Đ. Trong biên nhận không có thỏa thuận thời hạn trả nợ nhưng có nói miệng khi nào cần sẽ báo trước 01 tháng. Bà Đ1 nói hoàn cảnh khó khăn nên xin không trả lãi nhưng có trả bớt tiền vốn 1.000.000 đồng vào ngày 01/12/2018 dương lịch và ông Đ có thông báo cho bà Đ1 thời hạn 01 tháng kể từ ngày 01/12/2018 dương lịch đến ngày 01/01/2019 dương lịch là trả lại vốn 89.000.000 đồng cho ông Đ nhưng đến nay vẫn chưa trả bớt một khoản tiền nào nữa. Từ ngày 01/01/2019 dương lịch đến nay ông Đ nhiều lần nhắc nhở và yêu cầu bà Đ1 trả tiền nhưng bà Đ1 cứ hẹn hết lần này đến lần khác không trả. Do quyền lợi ông Đ bị ảnh hưởng nên ông Đ yêu cầu tính lãi từ ngày 02/01/2019 dương lịch đến ngày xét xử, tạm tính đến ngày 02/06/2022 dương lịch là 41 tháng, với lãi suất 1,66%/01 tháng tương đương: 41 tháng × 1,66% × 89.000.000 đồng = 60.573.000 đồng, khi vay thì ông Đ, bà Đ1 có thỏa thuận lãi suất bạc 3 phân (nghĩa là 3%/01 tháng, 2.700.000 đồng/01 tháng) nên nay ông Đ yêu cầu tính lãi là đúng theo quy định pháp luật. Nay ông Đ yêu cầu bà Đ1 trả số tiền vốn 89.000.000 đồng + lãi suất tính từ ngày 02/01/2019 dương lịch đến ngày 02/6/2022 dương lịch là 60.573.000 đồng, trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Đại diện ủy quyền của bị đơn anh Đoàn Thanh L trình bày: Bà Đ1 không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông Đ, bà Đ1 không có vay tiền của ông Đ. Kết luận giám định số 392/KL –KTHS ngày 04/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang thì bà Đ1 không đồng ý và yêu cầu Tòa án ra Quyết định trưng cầu giám định lại tại Viện pháp y quốc gia ở Thành phố Hồ Chí Minh.

* Bản án dân sự sơ thẩm số 228/2022/DS-ST ngày 27/6/2022 của Toà án nhân dân huyện C, đã áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 463, Điều 357, Điều 466, Điều 468, Điều 469 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 6 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Đ.

Buộc bà Nguyễn Thị Đ1 có nghĩa vụ trả cho ông Đặng Văn Đ số tiền cả vốn và lãi là 146.618.500 đồng (một trăm bốn mươi sáu triệu, sáu trăm mười tám nghìn, năm trăm đồng), trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

* Ngày 11/7/2022, bị đơn bà Nguyễn Thị Đ1 có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại vụ án, giải quyết những vấn đề sau:

- Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 228/2022/DS-ST ngày 27/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;

- Đề nghị giám định lần 2 chữ ký “Đ1” trong biên nhận nợ mà nguyên đơn nộp. Cơ quan yêu cầu giám định Phòng kỹ thuật hình sự tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết yêu cầu kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ1, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 228/2022/DS-ST ngày 27/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét xác định mối quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ1, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bà Đ1 kháng cáo yêu cầu được trưng cầu giám định lại tại phòng kỹ thuật hình sự Tỉnh Bến tre, tại phiên tòa phúc thẩm đại diện ủy quyền của bị đơn yêu cầu giám định lại tại Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an nhưng không cung cấp chứng cứ gì mới và cũng không nêu được lý do chính đáng để yêu cầu giám định lại. Xét thấy yêu cầu của bà Đ1 là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận, bởi lẽ: Kết luận giám định số 392/KL –KTHS ngày 04/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang đã được thực hiện đúng theo quy định pháp luật; Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang có đầy đủ chức năng giám định chữ ký, chữ viết; bà Đ1 không có căn cứ nào chứng minh kết luận giám định số 392/KL – KTHS là không chính xác, có vi phạm pháp luật, theo khoản 5 điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy, bà Đ1 yêu cầu giám định lại nhằm mục đích kéo dài thời gian trả nợ, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn được pháp luật bảo vệ nên không chấp nhận yêu cầu giám định lại của bà Đ1.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Đ, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về số tiền vốn: Ông Đ khởi kiện yêu cầu bà Đ1 trả cho ông số tiền vốn vay là 89.000.000 đồng theo biên nhận ngày 11/8/2017 âm lịch, ông Đ trình bày bà Đ1 vay của ông số tiền 90.000.000 đồng, khi vay bà Đ1 có làm biên nhận cho ông, biên nhận ngày 11/8/2017 âm lịch là do bà Đ1 viết và ký tên, theo biên nhận thì bà Đ1 vay của ông Đ số tiền 90.000.000, lãi bạc 3 phân (lãi 3%/01 tháng), lãi 2.700.000 đồng/01 tháng, không thỏa thuận thời hạn trả nợ. Đến ngày 01/12/2018 dương lịch bà Đ1 có trả bớt cho ông 1.000.000 đồng tiền vốn, từ khi vay cho đến nay bà Đ1 không có trả cho ông tiền lãi nên nay ông Đ yêu cầu bà Đ1 trả số tiền vốn 89.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi là phù hợp.

Đối với bị đơn bà Đ1 cho rằng bà không vay tiền của ông Đ nhưng bà có mua bán thức ăn với ông Đ, ông Đ là người mua, bà Đ1 là người bán, theo thỏa thuận trong mua bán thì ông Đ sẽ đưa cho bà Đ1 trước 10.000.000 đồng hoặc 20.000.000 đồng sau đó thì bà Đ1 mới giao thức ăn cho ông Đ rồi cấn trừ từ từ chứ bà không có vay tiền của ông Đ, bà không có viết và ký tên vào biên nhận ngày 11/8/2017 âm lịch và yêu cầu Tòa án ra Quyết định trưng cầu giám định chữ viết và chữ ký trong biên nhận ngày 11/8/2017 âm lịch tại Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang. Theo kết luận giám định số 392/KL –KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang thì chữ ký và chữ viết mang tên Nguyễn Thị Đ1 trong biên nhận nợ ngày 11/8/2017 âm lịch so với chữ ký và chữ viết mang tên Nguyễn Thị Đ1 trên tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người ký và viết ra, điều đó chứng tỏ bà Đ1 có vay của ông Đ số tiền 90.000.000 đồng là có thật nhưng ngày 01/12/2018 dương lịch bà Đ1 đã trả bớt 1.000.000 đồng tiền vốn, do đó, ông Đ yêu cầu bà Đ1 trả số tiền vốn 89.000.000 đồng là có căn cứ và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về số tiền lãi: Ông Đ trình bày ông đã thông báo thời gian để bà Đ1 trả lại tiền, ngày thông báo 01/12/2018 dương lịch đến ngày 01/01/2019 dương lịch là phải trả đủ số tiền vốn còn lại là 89.000.000 đồng nhưng đến nay bà Đ1 không trả nên ông yêu cầu bà Đ1 trả tiền lãi tính từ ngày 02/01/2019 dương lịch (sau ngày thông báo) đến ngày 02/6/2022 dương lịch là 41 tháng, với lãi suất 1,66%/01 tháng. Hội đồng xét xử xét thấy, theo biên nhận ngày 11/8/2017 âm lịch thì đây là trường hợp vay không kỳ hạn và có lãi theo quy định khoản 2 Điều 469 Bộ luật dân sự 2015.

Xét thấy căn cứ vào khoản 1 Điều 468 Tòa án điều chỉnh lại mức lãi suất 1,66%/01 tháng là phù hợp, án sơ thẩm đã xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ về việc yêu cầu bà Đ1 phải trả lãi suất tính từ ngày 02/03/2019 dương lịch đến ngày 02/6/2022 là 39 tháng, lãi suất 1,66%/01 tháng tương đương số tiền lãi:

89.000.000 đồng × 1,66% × 39 tháng = 57.618.500 đồng.

Tổng cộng bà Đ1 phải trả vốn và lãi cho ông Đ là 146.618.500 đồng, thời hạn trả khi án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về thời hiệu khởi kiện: Do các bên không có ai yêu cầu về thời hiệu khởi kiện nên cấp sơ thẩm căn cứ vào Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không xem xét về thời hiệu khởi kiện là phù hợp.

[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí giám định là 1.800.000 đồng. Do yêu cầu của ông Đ được chấp nhận nên bà Đ1 phải chịu 1.800.000 đồng chi phí giám định. Bà Đ1 đã tạm ứng số tiền trên nên xem như bà Đ1 đã thực hiện xong.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về nội dụng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.

Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn thị Đ1, giữ nguyên án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 308, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ các Điều 463; Điều 357; Điều 466; Điều 468; Điều 469 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 6 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ1, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 228/2022/DS-ST ngày 27/6/2022 của Toà án nhân dân huyện C, Tiền giang.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Đ.

Buộc bà Nguyễn Thị Đ1 có nghĩa vụ trả cho ông Đặng Văn Đ số tiền cả vốn và lãi là 146.618.500 đồng (một trăm bốn mươi sáu triệu, sáu trăm mười tám nghìn, năm trăm đồng), trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày ông Đ có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Đ1 chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng còn phải trả lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Đ1 phải chịu 7.331.000 (bảy triệu, ba trăm ba mươi mốt nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0024961 ngày 11/7/2022 Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.

3. Về chi phí tố tụng: Bà Đ1 phải chịu 1.800.000 (một triệu, tám trăm nghìn) đồng chi phí giám định, bà Đ1 đã tạm ứng số tiền trên nên xem như bà Đ1 đã thực hiện xong.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 301/2022/DS-PT

Số hiệu:301/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về