Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 26/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 26/2024/DS-ST NGÀY 14/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 424/2023/TLST-DS ngày 18 tháng 12 năm 2023 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2024/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 91/2024/QĐST-DS ngày 23 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang;

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Thành T1, sinh năm 1956; địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh An Giang (theo văn bản ủy quyền ngày 10/01/2024); có mặt.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm 1977; bà Lê Thị Kim T2, sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ A, ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lê Thành T1 trình bày:

Vào ngày 25/9/2022, vợ chồng ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2 có hỏi vay của bà Lê Thị T3 số tiền 105.000.000 đồng; lãi suất thỏa thuận miệng 3%/tháng, có làm biên nhận nợ ngày 25/9/2022, do ông H, bà T2 ký tên; khi vay tiền thì ông H, bà T2 có đưa cho bà T3 Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CS01443 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 26/7/2017 mang tên Lê Văn H, Lê Thị Kim T2. Từ khi vay tiền cho đến nay, ông H, bà T2 không đóng lãi cũng trả vốn cho bà T3, mặc dù bà T3 đã nhiều lần yêu ông H, bà T2 trả nợ nhưng ông H, bà T2 né tránh không trả nợ. Nên bà T3 khởi kiện yêu cầu ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2 liên đới trả cho bà số tiền 105.000.000 đồng và tính lãi theo quy định pháp luật tính từ ngày 25/9/2022 cho đến ngày xét xử. Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS01443 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 26/7/2017 cho ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 thì bà T3 đồng ý trả lại giấy này cho ông H, bà T2.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện bao gồm: Biên nhận nợ ngày 25/9/2022; giấy chứng nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS01443 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 26/7/2017 cho ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2.

Trong quá trình giải quyết bị đơn ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2 vắng mặt từ khi thụ lý vụ án nên không ghi nhận được ý kiến.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, Đại diện nguyên đơn ông Lê Thành T1 trình bày: vẫn giữ nguyễn yêu cầu khởi kiện. Yêu cầu ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2 liên đới trả cho bà Nguyễn Thị T trả số tiền 105.000.000 đồng; tại phiên tòa bà T xin rút lại yêu cầu tính lãi; bị đơn ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2 vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa vắng mặt theo Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Ngày 25/9/2022, vợ chồng ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2 có vay của bà Lê Thị T3 số tiền 105.000.000 đồng với lãi suất thỏa thuận 3%/ tháng (đóng lãi hàng tháng), có làm biên nhận nợ ngày 25/9/2022. Khi vay thì ông H, bà T2 có đưa cho bà T3 Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CS014413 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 26/7/2017 do ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 đứng tên. Xét thấy, hợp đồng vay tài sản giữa bà T3 với ông H, bà T2 được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, do ông H và bà T2 vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên việc bà T3 khởi kiện yêu cầu trả 105.000.000 đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên đề nghị chấp nhận. Về lãi suất đại diện ủy quyền cho nguyên đơn xin rút yêu cầu tính lãi nên đề nghị đình chỉ yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.

Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị T với ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2. Hợp đồng này các bên không thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định pháp luật nên hợp đồng thế chấp này đương nhiên vô hiệu tại thời điểm ký kết; do đó cần buộc bà T giao trả cho ông H, bà T2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS01443, tờ bản đồ số 74, thửa 24, với diện tích 165,2m2 do Sở T cấp ngày 26/7/2017 cho ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 có nghĩa vụ trả nợ theo biên nhận nợ mà ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 ký; chủ thể tham gia giao dịch không có đăng ký kinh doanh nên là tranh chấp về dân sự. Đồng thời, ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 (bị đơn) có nơi cư trú tại tổ A, ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Tại phiên tòa, ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhung vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Bà Nguyễn Thị T yêu cầu ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2 trả cho bà T số tiền 105.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Đối với bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS01443, tờ bản đồ số 74, thửa 24, với diện tích 165,2m2 do Sở T cấp ngày 26/7/2017 cho ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 thì bà T đồng ý trả lại cho ông H, bà T2.

Xét thấy: Việc vay tài sản giữa bà T với ông H, bà T2 được thực hiện trên cơ sở tự nguyện thể hiện qua biên nhận nợ ngày 25/9/2022; nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015; trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 không trả nợ cho bà T theo thỏa thuận nên đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong suốt quá trình tố tụng, bị đơn ông H, bà T2 không nộp văn bản thể hiện ý kiến phản đối của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp mặc dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ. Đồng thời, Tòa án không tiến hành hoà giải được, không đối chất được để làm rõ các vấn đề có liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng như không thực hiện được quyền tranh luận tại phiên tòa để chứng minh cho quyền lợi của mình là lỗi của ông H, bà T2. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, bà Nguyễn Thị T đã xuất trình chứng cứ là biên nhận nợ ngày 25/9/2022, do bà T2, ông H ký nhận, đã chứng minh được có sự việc ông H, bà T2 nợ tiền của Nguyễn Thị T là: 105.000.000đ nhưng ông H, bà T2 vẫn chưa trả nợ cho bà T là quy phạm vi định tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ông H, bà T2 có nghĩa vụ trả cho bà số tiền nêu trên là có căn cứ nên được xem xét chấp nhận.

Về lãi suất: Do nguyên đơn rút yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu này của nguyên đơn.

Đối với hợp đồng thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS01443, tờ bản đồ số 74, thửa 24, với diện tích 165,2m2 do Sở T cấp ngày 26/7/2017 cho ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2. Tuy nhiên hợp đồng này không thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định pháp luật nên hợp đồng thế chấp này đương nhiên vô hiệu nên cần buộc bà T giao trả cho ông H, bà T2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này.

[3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 26, 35, 39, 147, 227, 244, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 280, 323, 463 và 466 Bộ luật Dân sự 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T đối với ông Lê Văn H, ba Lê Thị Kim T2.

Buộc ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền 105.000.000 đồng (một trăm lẻ năm triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu ông Lê Văn H, bà Lê Thị Kim T2 trả lãi suất của khoản vay 105.000.000 đồng.

[2] Tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị T với cho ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 vô hiệu. Bà Nguyễn Thị T có nghĩa vụ trả lại cho ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2: 01 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số cso 1443, tờ bản đồ số 74, thửa 24, với diện tích 165,2m2 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp ngày 26/7/2017 cho ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Văn H và bà Lê Thị Kim T2 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 5.250.000 đồng (năm triệu hai trăm năm chục nghìn đồng).

[4] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

[5] Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 26/2024/DS-ST

Số hiệu:26/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:14/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về