Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 259/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 259/2022/DS-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 71/2022/TB-TLVA ngày 18 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101a/2022/QĐST-DS ngày 28 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn :

1.1/ Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1979

1.2/ Nguyễn Ngọc Ái N, sinh năm 2005

1.3/ Nguyễn Đức H1, sinh năm 2006 Địa chỉ: tổ 18 ấp TP, xã TH, huyện CT, Tiền Giang Đại diện theo pháp luật của Nguyễn Ngọc Ái N và Nguyễn Đức H1: Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1979.Địa chỉ: tổ 18 ấp TP, xã TH, huyện CT, Tiền Giang.

1.4/ Nguyễn Văn H2, sinh năm 1956

1.5/ Cao Kim V, sinh năm 1959 Địa chỉ: tổ 17 ấp TP, xã TH, huyện CT, Tiền Giang Đại diện theo ủy quyền của ông H2 và bà V: Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1979.Địa chỉ: tổ 18 ấp TP, xã TH, huyện CT, Tiền Giang.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Võ Trọng K, Văn phòng Luật sư Võ Trọng K, đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.

2 / Bị đơn : Lương Minh N, sinh năm 1981 Địa chi: Ấp TP, xã TH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (Có mặt ông H2, bà V, chị H và anh N)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo nguyên đơn Nguyễn Ngọc H trình bày:

Ông Nguyễn Kim H3 có cha mẹ là ông Nguyễn Văn H2, sinh năm 1956 và Cao Kim V sinh năm 1959, vợ là Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1979. Ông H2ng và bà Hạnh có hai người con là Nguyễn Ngọc Ái N sinh năm 2005 và Nguyễn Đức H1, sinh năm 2006. Ngoài ra ông H2ng không có vợ hay con nào khác. Ông H3 chết vào ngày 19/11/2021.

Trước khi mất ngày 04/11/2021 ông H2ng có cho ông Lương Minh N vay số tiền 615.000.000 đồng, lãi suất 2%/tháng. Tuy nhiên từ khi ông H2ng mất, gia đình chị H có yêu cầu anh N trả số tiền nêu trên nhưng ông N không thực hiện và từ ngày vay tiền đến nay ông N không có trả khoản tiền lãi nào.

Nay yêu cầu ông N trả cho chúng tôi số tiền 615.000.000 đồng, trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật. Không yêu cầu trả lãi.

Ông H2, bà V thống nhất lời trình bày của anh K, không bổ sung gì thêm.

* Theo bị đơn Lương Minh N trình bày:

Vào tháng 01/2020, anh có vay của ông Nguyễn Kim H3 số tiền 20.000.000 đồng để làm đám tang cho cha anh. Khi đó có làm biên nhận vay tiền với lãi suất 3%/tháng nhưng thực tế ông H2ng yêu cầu anh trả lãi suất 17%/tháng. Do hoàn cảnh khó khăn nên từ khi vay anh N không trả lãi và vốn nào cho ông H2ng, khi đó ông H2ng đồng ý cộng dồn tiền lãi vào tiền nợ gốc của anh cứ 2-3 tháng một lần. Đến ngày 04/11/2021 thì ông H2ng có yêu cầu anh ký giấy nhận nợ là vay 615.000.000 đồng, lãi suất 2%/tháng nên anh đồng ý viết và ký tên vào biên nhận, đến nay anh cũng chưa trả được khoảng tiền nào. Do số nợ này đã tính lãi quá nhiều nên tôi xin trả số tiền 100.000.000 đồng. Xin trả trong thời hạn 03 tháng.

Tại phiên tòa sơ thẩm.

Nguyên đơn Nguyễn Ngọc H giữ nguyên khởi kiện yêu cầu anh N có nghĩa vụ trả cho chị H số tiền 615.000.000đ, trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu tính lãi suất.

Phía bị đơn anh Lương Minh N chỉ chấp nhận trả cho chị H, ông H2 và bà V số tiền 20.000.000đ và lãi suất từ ngày vay đến ngày xét xử. Còn trả theo yêu cầu của chị H, ông H2 và bà V thì anh N không đồng ý trả.

Luật sư phát biểu quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền 615.000.000đ, đồng thời không chấp nhận lời trình bày của bị đơn trả 20.000.000đ và tiền lãi tính từ ngày vay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định vụ án như sau:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền vay chưa thanh toán theo thỏa thuận. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là Hợp đồng vay tài sản theo quy định khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]- Về nội dung yêu cầu khởi kiện:

Trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Nguyễn Ngọc H cung cấp chứng cứ là Biên nhận mượn tiền ngày 04/11/2021; Nội dung có ghi thời điểm xác lập hợp đồng, số tiền vay, lãi suất, phương thức trả tiền vay, được anh N đồng ý, ký và ghi rỏ họ tên; Bản tự khai của nguyên đơn trình bày chi tiết số tiền vay và mức lãi suất hai bên thỏa thuận. Xét thấy bản hợp đồng cho mượn tiền các bên tự nguyện thỏa thuận ký kết, về hình thức và nội dung hợp đồng trên phù hợp pháp luật Tại bản tự khai ngày 17/6/2022 anh N thừa nhận có vay tiền của ông H2ng và viết biên nhận mượn tiền của ông H2ng nhưng anh N trình bày anh có vay của ông Nguyễn Kim H3 số tiền 20.000.000 đồng để làm đám tang cho cha anh. Khi đó có làm biên nhận vay tiền với lãi suất 3%/tháng nhưng thực tế ông H2ng yêu cầu anh trả lãi suất 17%/tháng. Do hoàn cảnh khó khăn nên từ khi vay anh N không trả lãi và vốn nào cho ông H2ng, khi đó ông H2ng đồng ý cộng dồn tiền lãi vào tiền nợ gốc của anh cứ 2-3 tháng một lần và yêu cầu anh viết biên nhận mượn tiền. Tuy nhiên anh N khống cung cấp được chứng cứ chứng minh việc anh vay và trả lãi đối với số tiền vay. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy biên nhận mượn tiền nguyên đơn đã cung cấp là đúng sự thật.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định anh N đã vay và còn nợ anh H3 số tiền là 615.000.000đ vốn vay theo biên nhận mượn tiền là phù hợp với qui định của pháp luật.

[3] Xét yêu cầu thanh toán số tiền vốn vay: Xét thấy anh N đã không trả nợ đúng kỳ hạn theo thỏa thuận, chị H, ông H2 và bà V đã nhiều lần yêu cầu anh N trả số tiền vốn vay 615.000.000đ nhưng anh N không thực hiện. Như vậy, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hoàn toàn do lỗi của anh N, do không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả tiền khi đến hạn theo đúng thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện chị H, ông H2 và bà V.

[4] Xét yêu cầu tính lãi: chị H, ông H2 và bà V không yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền vay là tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của luật, do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy buộc anh N có nghĩa vụ trả cho chị H, ông H2, bà V, cháu N và cháu H1 là người thừa kế của ông H2ng số tiền 615.000.000đ (Sáu trăm mười lăm triệu đồng) là có cơ sở , phù hợp với qui định của pháp luật.

Xét lời trình bày của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp với qui định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí:

- Bị đơn có nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm, cụ thể:

615.000.000đ x 05% = 30.750.000đ.

- Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên trả lại cho nguyên đơn tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 26, 92, 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 357, 463, 464, 465, 466, 468, 470 Bộ luật dân sự;

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn H2, Cao Kim V, Nguyễn Ngọc Ái N và Nguyễn Đức H1.

Buộc bị đơn Lương Minh N có nghĩa vụ trả cho các nguyên đơn Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn H2, Cao Kim V, Nguyễn Ngọc Ái N và Nguyễn Đức H1 số tiền 615.000.000 đồng (Sáu trăm mười lăm triệu đồng).

Kể từ ngày các nguyên đơn Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn H2, Cao Kim V, Nguyễn Ngọc Ái N và Nguyễn Đức H1 có đơn yêu cầu Thi hành án nếu bị đơn Lương Minh N chậm trả tiền còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả theo qui định tại khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Anh N phải chịu 30.750.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn trả cho các nguyên đơn Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn H2, Cao Kim V, Nguyễn Ngọc Ái N và Nguyễn Đức H1 14.300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0003926 ngày 16/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, Tiền Giang.

3. Về quyền kháng cáo: các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 259/2022/DS-ST

Số hiệu:259/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về