Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 257/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 257/2023/DS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 447/2023/TLST- DS ngày 12 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và mua bán tài sản”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 589/2023/QĐXXST-DS, ngày 24 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt S, sinh năm 1977 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Khóm 1, thị t, huyện P, tỉnh C.

Bị đơn: Ông Phan Thanh M, sinh năm 1977 (vắng mặt).

Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1978 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ cư trú: Ấp G, xã N, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 09/10/2023, các văn bản kèm theo và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Việt S trình bày:

Vào ngày 16/5/2022 bà Nguyễn Thị C có hỏi vay của ông với số tiền là 28.000.000 đồng, lãi suất hai bên tự thỏa thuận 1,66%/tháng. Thời gian thanh toán là ngày 16/6/2022. Quá trình vay tiền thì bà C có ký biên nhận nợ ngày 16/5/2022. Ngày 17/11/2022 bà C đã thanh toán cho ông số tiền 15.800.000 đồng. Vào ngày 13/01/2023 ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C có mua 01 bộ bàn đá hoa cương, loa kéo BQ và điện thoại OPPO tại cửa hàng của ông với số tiền là 24.590.000 đồng, bà C và ông M đã nhận các sản phẩm nói trên và có ký vào biên nhận nợ, cam kết thời gian thanh toán vào ngày 13/02/2023.

Từ khi vay tiền và mua hàng ông M, bà C không trả tiền cho ông cũng không đóng lãi, ông có liên hệ yêu cầu trả tiền nhiều lần nhưng ông M, bà C không thực hiện và cứ hứa hẹn cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C trả cho ông với tổng số tiền hai khoảng là 36.790.000 đồng. Tính lãi suất đối với số tiền 12.200.000 đồng từ ngày 16/5/2022 đến ngày xét xử 29/12/2023 và tính lãi suất đối với số tiền 24.590.000 đồng từ ngày 13/02/2023 đến ngày xét xử 29/12/2023.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C đúng quy định pháp luật. Nhưng ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C vắng mặt và không cung cấp lời khai, tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa ông Nguyễn Việt S với ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C được xác định là “Hợp đồng vay tài sản và hợp đồng mua bán tài sản” là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C có nơi cư trú tại huyện Phú Tân thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ được quy định tại khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhiều lần, nhưng ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C không cung cấp chứng cứ và vắng mặt không có lý do. Nay căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Ông Nguyễn Việt S xác định giữa ông và bà Nguyễn Thị C có thỏa thuận vay tiền cụ thể là vào ngày 16/5/2022 bà Nguyễn Thị C có hỏi vay của ông với số tiền là 28.000.000 đồng, lãi suất hai bên tự thỏa thuận 1,66%/tháng. Thời gian thanh toán là ngày 16/6/2022. Quá trình vay tiền thì bà C có ký biên nhận nợ ngày 16/5/2022. Vào ngày 13/01/2023 ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C có mua 01 bộ bàn đá hoa cương, loa kéo BQ và điện thoại OPPO tại cửa hàng của ông với số tiền là 24.590.000 đồng, bà C và ông M đã nhận các sản phẩm nói trên và có ký vào biên nhận nợ, cam kết thời gian thanh toán vào ngày 13/02/2023.

Bà Nguyễn Thị C có vay tiền của ông Nguyễn Việt S là thực tế xảy ra và để nợ quá hạn do bà C phải trả nợ gốc và lãi nhưng không thực hiện. Phía ông S đã nhiều lần yêu cầu bà C trả nợ nhưng bà C không thanh toán cho ông S. Ông S có cung cấp một Biên nhận nợ lập ngày 16/5/2022 có nội dung về việc bà Nguyễn Thị C có vay tiền của ông Nguyễn Việt S và có ký tên đúng như ông S trình bày, bà C có thanh toán cho ông S 15.800.000 đồng và còn nợ lại 12.200.000 đồng. Ngoài ra ông M và bà C có mua các tài sản như 01 bộ bàn đá hoa cương, loa kéo BQ và điện thoại OPPO với số tiền là 24.590.000 đồng nhưng đến nay chưa thanh toán cho ông S và để nợ quá hạn theo Biên nhận ông S đã cung cấp ngày 13/01/2023 có nội dung ông M và bà C mua tài sản và còn nợ lại ông S đúng như ông S trình bày.

Đối với ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C không có ý kiến gì về nội dung khởi kiện và chứng cứ do ông Nguyễn Việt S cung cấp, ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C cũng không có yêu cầu phản tố. Do đó ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho ông Nguyễn Việt S và buộc ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C trả cho Nguyễn Việt S tổng số tiền còn nợ là 36.790.000 đồng là có cơ sở.

[4] Về lãi suất: Theo Biên nhận nợ ngày 16/5/2022 có chữ ký của bà Nguyễn Thị C do ông S cung cấp thể hiện bà C cam kết đến ngày 16/6/2022 sẽ trả đủ tiền cho ông S. Như vậy bà C không đóng lãi nên thời hạn vay là ngày 16/5/2022. Do bà C không thực hiện nghĩa vụ trả tiền như đã cam kết nên ông S yêu cầu bà C trả lãi chậm thực hiện nghĩa vụ là phù hợp với quy định tại điều 468 của Bộ luật dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tiền lãi được tính như sau: Lãi suất 20%/năm, tiền lãi tính từ ngày 16/5/2022 đến ngày xét xử ngày 29/12/2023 là 01 năm 07 tháng 13 ngày (12.200.000 đồng x 01 năm 07 tháng 13 ngày x 20%/năm) = 3.943.000 đồng. Như vậy tổng số tiền nợ gốc và lãi là 16.143.000 đồng.

Theo Biên nhận nợ ngày 13/01/2023 có chữ ký của Nguyễn Thị C và ông Phan Thanh M do ông S cung cấp thể hiện bà C và ông M cam kết đến ngày 13/02/2023 sẽ trả đủ tiền cho ông S. Như vậy bà C và ông M không trả nợ như cam kết nên thời hạn là ngày 13/02/2023. Do bà C và ông M không thực hiện nghĩa vụ trả tiền như đã cam kết nên ông S yêu cầu bà C và ông M trả lãi chậm thực hiện nghĩa vụ là phù hợp với quy định tại điều 468 của Bộ luật dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tiền lãi được tính như sau: Lãi suất 10%/năm, tiền lãi tính từ ngày 13/02/2023 đến ngày xét xử ngày 29/12/2023 là 10 tháng 16 ngày (24.590.000 đồng x 10 tháng 16 ngày x 20%/năm) = 2.151.000 đồng. Như vậy tổng số tiền nợ gốc và lãi là 26.741.000 đồng. Tổng hai khoảng ông M và bà C nợ ông S là 42.884.000 đồng.

[5] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ, nay buộc ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định tại Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; nguyên đơn được hoàn lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 26; 35; 39, 147 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 430, 440, 463, 466 và 468 của Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Việt S. Buộc ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C cùng liên đới trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền nợ là 42.884.000 đồng (bốn mươi hai triệu tám trăm tám mươi bốn nghìn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:

Buộc ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C cùng liên đới phải chịu 2.144.000 đồng (hai triệu một trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).

Ông Nguyễn Việt S đã nộp tạm ứng số tiền 1.047.000 đồng (một triệu không trăm bốn mươi bảy nghìn đồng), tại biên lai thu tiền số 0019221 ngày 11/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, nay hoàn lại toàn bộ cho Nguyễn Việt S.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Ông Nguyễn Việt S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Ông Phan Thanh M và bà Nguyễn Thị C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 257/2023/DS-ST

Số hiệu:257/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về