TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 234/2023/DS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 25 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 334/2023/TLST-DS ngày 22 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 680/2023/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trương Thị Thùy L, năm sinh 1986.
Địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Ngọc H, sinh năm 1971 (Đề nghị xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ (Theo văn bản ủy quyền ngày 23/5/2023).
- Bi đơn:
1/ Bà Lê Thị Bé B, sinh năm 1984 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số A, đường T, khu V Sông H, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ.
2/ Ông Dương Văn H1, sinh năm 1984 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số D, đường M, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà Trương Thị Thùy L trình bày:
Do mối quan hệ quen biết nhiều năm, đồng thời thấy ông Dương Văn H1, bà Lê Thị Bé B làm kinh tế khá tốt và có tài sản, địa chỉ rõ ràng nên bà tin tưởng cho ông H1, bà B vay số tiền 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng) với thời hạn là 03 tháng và không có lãi suất. Hợp đồng vay được công chứng tại Văn phòng C, số 1288, quyển số 05/2022/TP/CC-SCC/HĐGĐ ngày 23/5/2022. Đến ngày 30/8/2022 bà Lê Thị Bé B tiếp tục vay thêm số tiền 800.000.000 đồng (T trăm triệu đồng) với thời hạn 02 tháng cũng không có lãi suất. Hợp đồng vay được công chứng tại Văn phòng C, số 2967, quyển số 08/2022/TP/CC-SCC/HĐGĐ ngày 30/8/2022. Sau khi ký hợp đồng vay thì bà đã giao đầy đủ tiền cho ông Dương Văn H1, bà Lê Thị Bé B. Tuy nhiên, từ khi vay đến nay ông H1, bà B vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán lại số tiền vay này. Vì vậy, bà Trương Thị Thùy L khởi kiện yêu cầu Tòa án:
+ Buộc ông Dương Văn H1 và bà Lê Thị Bé B liên đới trả số tiền gốc và lãi tạm tính đến ngày 23/4/2023 là 2.128.000.000 đồng (Hai tỷ, một trăm hai mươi tám triệu đồng) và tiếp tục chịu lãi 10%/năm cho đến khi thanh toán hết nợ.
+ Buộc bà Lê Thị Bé B trả nợ gốc và lãi tạm tính đến ngày 23/4/2023 là 838.0000.000 (T trăm ba mươi tám triệu đồng) và tiếp tục chịu lãi 10%/năm cho đến khi thanh toán hết nợ.
* Bị đơn bà Lê Thị Bé B và ông Dương Văn H1:
Mặc dù, đã được Tòa án triệu hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên không rõ ý kiến.
Đồng thời, đại diện theo của ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, - Theo đơn đề nghị vắng mặt tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Ngọc H trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị Thùy L, yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:
+ Buộc bà Lê Thị Bé B, ông Dương Văn H1 thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay cho bà Trương Thị Thùy L theo Hợp đồng cho mượn tiền ngày 23/5/2022 được công chứng tại Văn phòng C (số công chứng: 1288, quyển số 05/2022/TP/CC-SCC/HĐGD) với tổng số tiền 2.216.666.000 đồng. Trong đó, nợ gốc là 2.000.000.000 đồng và nợ lãi chậm thanh toán theo quy định định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay 23/8/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm 25/9/2023 làm tròn 01 năm 01 tháng với mức lãi suất 10%/năm = 216.666.666 đồng (Làm tròn 216.666.000 đồng).
+ Buộc bà Lê Thị Bé B thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay cho bà Trương Thị Thùy L theo Hợp đồng cho mượn tiền ngày 30/8/2022 được công chứng tại Văn phòng C (số công chứng: 2967, quyển số 08/2022/TP/CC-SCC/HĐGD) với tổng số tiền 872.222.000 đồng. Trong đó, nợ gốc 800.000.000 đồng, nợ lãi chậm thanh toán theo quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay 30/10/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm 25/9/2023 là 10 tháng 25 ngày với mức lãi suất 10%/năm = 72.222.221 đồng (Làm tròn 72.222.000 đồng).
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Việc thụ lý, giải quyết của Tòa án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp. Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án tuân theo pháp luật. Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Ngọc H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn bà Lê Thị Bé B và ông Dương Văn H1 được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
+ Về giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở để chứng minh ngày 23/5/2022 bà Lê Thị Bé B, ông Dương Văn H1 có vay 2.000.000.000 đồng của bà Trương Thị Thùy L, thời hạn vay 03 tháng, không lãi. Đến ngày 30/8/2022, bà Lê Thị Bé B tiếp tục vay 800.000.000 đồng của bà Trương Thị Thùy L, thời hạn vay 02 tháng, cũng không tính lãi. Cả hai hợp đồng vay tiền đều được lập thành văn bản và được công chứng tại Văn phòng Công chứng Huỳnh Thị Thúy K theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Thùy L buộc bà Lê Thị Bé B, ông Dương Văn H1 liên đới trả nợ vay 2.000.000.000 đồng; bà Lê Thị Bé B trả 800.000.000 đồng là có cơ sở để chấp nhận.
Đối với yêu cầu tính lãi chậm thanh toán, nguyên đơn yêu cầu tính từ ngày vi phạm nghĩa vụ trả nợ vay đến ngày xét xử sơ thẩm 25/9/2023 với mức lãi suất 10%/năm là phù hợp với khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Từ những phân tích nêu trên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
+ Buộc bà Lê Thị Bé B, ông Dương Văn H1 thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay cho bà Trương Thị Thùy L với tổng số tiền 2.216.666.000 đồng.
+ Buộc bà Lê Thị Bé B thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay cho bà Trương Thị Thùy L với tổng số tiền 872.222.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
San khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà Trương Thị Thùy L khởi kiện yêu cầu buộc ông Dương Văn H1, bà Lê Thị Bé B trả nợ vay và lãi suất theo quy định của pháp luật. Quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Ngọc H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn bà Lê Thị Bé B, ông Dương Văn H1 được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành giải quyết vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về nội dung:
[3.1] Xét trong quá trình tố tụng bị đơn ông Dương Văn H1, bà Lê Thị B1 Ba không thực hiện nghĩa vụ tham gia tố tụng theo triệu tập của Tòa án, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình nên được xem là từ bỏ quyền tranh tụng cũng như những quyền và lợi ích hợp pháp của mình được pháp luật bảo vệ theo Điều 6, Điều 24 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ làm cơ sở đề giải quyết vụ án.
[3.2] Đối với yêu cầu buộc bà Lê Thị Bé B, ông Dương Văn H1 liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay với tổng số tiền 2.216.666.000 đồng.
Hội đồng xét xử nhận thấy, theo Hợp đồng cho mượn tiền ngày 23/5/2022 được công chứng tại Văn phòng C (số công chứng: 1288, quyển số 05/2022/TP/CC-SCC/HĐGD) có nội dung bà Trương Thị Thùy L cho ông Dương Văn H1, bà Lê Thị Bé B vay số tiền 2.000.000.000 đồng, thời hạn vay 03 tháng kể từ ngày hợp đồng được công chứng và không có lãi suất. Như vậy, có cơ sở xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có giao dịch vay tài sản với số tiền là 2.000.000.000 đồng, do bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ vay là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 466, khoản 1 Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu tính lãi từ ngày bị đơn vị phạm nghĩa vụ thanh toán ngày 23/8/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm 25/9/2023 với mức lãi suất 10%/năm là có cơ sở chấp nhận.
2.000.000.000 đồng x 13 tháng x 10%/năm = 216.666.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền bà Lê Thị Bé B, ông Dương Văn H1 có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trương Thị Thùy L là 2.000.000.000 đồng + 216.666.000 đồng = 2.216.666.000 đồng.
[3.3] Đối với yêu cầu buộc bà Lê Thị Bé B thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay với tổng số tiền 872.222.000 đồng.
Căn cứ Hợp đồng cho mượn tiền ngày 30/8/2022 được công chứng tại Văn phòng C (số công chứng: 2967, quyển số 08/2022/TP/CC-SCC/HĐGD) thể hiện bà Trương Thị Thùy L có cho bà Lê Thị Bé B có vay số tiền 800.000.000 đồng với thời hạn là 02 tháng kể từ ngày hợp đồng được công chứng và không có lãi suất. Như vậy, có cơ sở xác định giữa nguyên đơn bà Trương Thị Thùy L và bị đơn bà Lê Thị Bé B có giao dịch vay tài sản với số tiền là 800.000.000 đồng, do bà Ba k thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ vay là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 466, khoản 1 Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Xét nguyên đơn yêu cầu tính lãi chậm thanh toán từ ngày vi phạm nghĩa vụ trả nợ ngày 30/10/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm 25/9/2023 với mức lãi suất 10%/năm là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên được chấp nhận.
800.000.000 đồng x 10%/năm x 10 tháng 25 ngày = 72.222.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền bà Lê Thị B1 Ba phải trả cho bà Trương Thị Thùy L là 800.000.000 đồng + 72.222.000 đồng = 872.222.000 đồng.
[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự có giá ngạch đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
[5] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
+ Việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Nội dung giải quyết vụ án:
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 6, Điều 24, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 235, khoản 1 Điều 238, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 463, Điều 466, Điều 468 và Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị Thùy L.
- Buộc bà Lê Thị Bé B và ông Dương Văn H1 liên đới thanh toán nợ vay cho bà Trương Thị Thùy L với tổng số tiền là 2.216.666.000 đồng (Hai tỷ, hai trăm mười sáu triệu, sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
- Buộc bà Lê Thị Bé B thanh toán nợ vay cho bà Trương Thị Thùy L với số tiền là 872.222.000 đồng (T trăm bảy mươi hai triệu, hai trăm hai mươi hai nghìn đồng).
Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bị đơn bà Lê Thị Bé B và ông Dương Văn H1 phải chịu 76.333.000 đồng (Bảy mươi sáu triệu, ba trăm ba mươi ba nghìn đồng).
- Bị đơn bà Lê Thị B1 Ba phải chịu 38.166.000 đồng (Ba mươi tám triệu, một trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
- Nguyên đơn bà Trương Thị Thùy L được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 37.280.000 đồng (Ba mươi bảy triệu, hai trăm tám mươi nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu số: 0001109 ngày 18/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết), để yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 234/2023/DS-ST
Số hiệu: | 234/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về