TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 227/2023/DS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 619/2022/TLST-DS ngày 24 tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2023/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 5 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 68/2023/QĐST-DS ngày 06 tháng 6 năm 2023 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 38/2023/TB-TA ngày 08 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1970; địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện Đ, tỉnh L. (có mặt) 2. Bị đơn:
2.1. Bà Lương Thị P, sinh năm 1952; (có mặt)
2.2. Ông Phạm Quốc L, sinh năm 1996; (xin vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh L.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lương Thị H1, sinh năm 1949; địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh L. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/7/2022, những lời khai tiếp theo và tại phiên tòa nguyên đơn bà H trình bày như sau:
Khoảng năm 2019, năm 2020, bà H có cho ông Phạm Quốc L vay số tiền 30.000.000 đồng. Đến năm 2021, ông L hỏi vay thêm 50.000.000 đồng. Bà H yêu cầu phải có mẹ ông L là bà Lương Thị P ký tên thì bà H mới cho ông L vay thêm 50.000.000 đồng.
Ngày 13 tháng 12 năm 2021, ông L viết giấy nợ với số tiền vay là 80.000.000 đồng, có bà P lăn tay. Bà H đã đưa cho ông L 50.000.000 đồng vào ngày 13/12/2021.
Tại đơn khởi kiện, bà H yêu cầu ông L và bà P có nghĩa vụ trả 80.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
Tại phiên tòa, bà H yêu cầu ông L và bà p liên đới trả 50.000.000 đồng; yêu cầu ông L trả 30.000.000 đồng; không yêu cầu tính lãi; không yêu cầu chồng bà P; không yêu cầu vợ ông L trả nợ; không yêu cầu bà Lương Thị H1 trả nợ.
Bị đơn bà Lương Thị P trình bày:
Bà P là mẹ ruột của ông Phạm Quốc L, hiện đang sống cùng nhà. Bà p chỉ biết ông L có thỏa thuận vay mượn tiền của bà H giúp cho bà H1. Bà P có ký tên vào giấy vay tiền nhưng không nhận tiền từ bà H. Ông L tự thỏa thuận và giao nhận tiền với bà H.
Nay, bà H khởi kiện yêu cầu bà P và ông L liên đới trả số tiền 50.000.000 đồng thì bà P không đồng ý.
Bị đơn ông Phạm Quốc L trình bày.
Trong năm 2021, ông L có vay của bà H hai lần mỗi lần 10.000.000 đồng, tổng cộng 20.000.000 đồng, không thỏa thuận thời gian trả nợ, không viết giấy nợ, lãi suất 10.000 đồng trên 1.000.000 đồng trên 1 ngày. Ông L vay 20.000.000 đồng của bà H là do ông L đứng ra mượn dùm cho bà H1.
Sau đó, ông L không có tiền đóng lãi nên bà H có cho ông L mượn dây chuyền. Ông L đi cầm tại tiệm cầm đồ T, cầm 10.000.000 đồng về đóng lãi cho bà H, giấy cầm đồ ông L đã đưa cho bà H, dây chuyền ông L chưa chuộc về, bà H có chuộc về hay không thì ông không biết. Bà H1 có trả cho bà H 6.600.000 đồng tiền lãi, không làm biên nhận, lúc giao tiền chỉ có bà H1 và bà H.
Đến ngày 13/12/2021, bà H buộc ông L và mẹ ông L là bà Lương Thị P ký giấy nợ 80.000.000 đồng nhưng thực tế thì bà H không đưa cho cho ông L số tiền 80.000.000 đồng. Như vậy tổng cộng, ông L chỉ nhận của bà H 30.000.000 đồng tiền gốc. Ông L đã trả cho bà H tiền lãi 28.000.000 đồng. Bà HI đã trả cho bà H tiền lãi là 26.600.000 đồng.
Nay, ông L không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà H. Ông L đồng ý trả cho bà H 30.000.000 đồng tiền gốc, xin không trả tiền lãi.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị H1 trình bày:
Bà H1 là chị ruột của bà P, là dì ruột của ông L. Do cần tiền để điều trị bệnh nên bà H1 có nhờ bà P và ông L hỏi mượn tiền bà H 40.000.000 đồng. Trong số tiền 80.000.000 đồng, bà P, ông L mượn của bà H thì bà H1 có nhận 40.000.000 đồng. Bà H1 đồng ý trả số tiền 40.000.000 đồng cho bà H nhưng do khó khăn nên bà H1 xin trả dần cho bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Bà P, ông L hiện đang cư trú tại huyện Đ, căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh L, theo thủ tục sơ thẩm.
[1.2]. Về vắng mặt của các đương sự: Bà P, bà H1, bà H có mặt. Ông L có đề nghị xin vắng mặt, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông L.
[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nhưng không thành nên đưa vụ án ra xét xử.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Theo Biên bản phiên họp về kiểm tra việc giao nhận, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa, nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện. Bị đơn không có yêu cầu phản tố. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập.
[2.2]. Tại phiên tòa, bà H nộp bản chính giấy nợ ngày 13/12/2021 và đối chiếu bản chính giấy ký nhận mượn tiền ngày 30/12/2020. Các đương sự khác không xuất trình, giao nộp thêm chứng cứ.
[2.3]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Bà P, bà H1, ông L cho rằng ngày 13 tháng 12 năm 2021, ông L viết giấy nợ với số tiền vay là 80.000.000 đồng, có bà P lăn tay là để mượn tiền dùm bà H1 nhưng bà H không thừa nhận. Bà P, bà H1, ông L không có chứng cứ chứng minh. Căn cứ giấy nợ ngày 13/12/2021, ông L, bà P có mượn của bà H 80.000.000 đồng. Do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc ông L và bà P liên đới trả cho bà H 50.000.000 đồng; buộc ông L trả cho bà H 30.000.000 đồng.
[2.4]. Về yêu cầu tính lãi:
Ông L cho rằng đã trả cho bà H tiền lãi 28.000.000 đồng. Bà H không thừa nhận. Ông L không có chứng cứ chứng minh.
Bà H1 cho rằng đã trả cho bà H tiền lãi là 26.600.000 đồng. Bà H không thừa nhận. Bà H1 không có chứng cứ chứng minh.
Bà H không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.5]. Về trách nhiệm liên đới: Bà H không yêu cầu chồng bà P và không yêu cầu vợ ông L cùng trả nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét, đồng thời không đưa họ tham gia tố tụng.
[2.6]. Về phạm vi khởi kiện: Trong vụ án này, bà H không yêu cầu bà H1 trả nợ theo giấy ký nhận mượn tiền ngày 30/12/2020 giữa bà H và bà H1 nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3]. Về án phí: Buộc ông L nộp 1.500.000 đồng và 1.250.000 đồng án phí sung ngân sách nhà nước; buộc bà p nộp 1.250.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bà P là người cao tuổi nên được miễn án phí. Bà H không phải nộp án phí, hoàn lại cho bà H 2.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006975 ngày 20/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 288, Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị H về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với bà Lương Thị P, ông Phạm Quốc L.
Buộc ông L và bà P liên đới trả cho bà H 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng), khi án có hiệu lực pháp luật.
Buộc ông L trả cho bà H 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng), khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) bên có nghĩa vụ chưa thi hành xong số tiền trên thì còn phải trả cho bên được thi hành án khoản tiền lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Về án phí: Buộc ông L nộp 2.750.000 đồng án phí sung ngân sách nhà nước; bà P là người cao tuổi nên được miễn án phí. Bà H không phải nộp án phí, hoàn lại cho bà H 2.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006975 ngày 20/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa 3. Về quyền kháng cáo: Án sơ thẩm xét xử tuyên án công khai, trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày niêm yết.
“Trường hợp bản án hoặc quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án là 05 năm theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 227/2023/DS-ST
Số hiệu: | 227/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về