Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 214/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO - TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 214/2022/DS-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số: 321/2021/TLST-DS ngày 03/12/2021 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/QĐXXST-DS ngày 12/4/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2022/QĐST-DS ngày 28/4/2022, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 107/2022/QĐST-DS ngày 17/5/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Ngọc L, sinh năm 1956; Địa chỉ: ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo ủy quyền: Chị Lê Thị Hồng T1, sinh năm 1983 (có mặt).

Địa chỉ: 244/2 Tổ 8, ấp P, xã H, huyện K, tỉnh Tiền Giang. (Theo văn bản ủy quyền ngày 24/5/2021) Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng D, sinh năm 1958 (có mặt);

Ông Lê Văn T, sinh năm 1961 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 16/11/2021 của nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc L và trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là chị Lê Thị Hồng T1 trình bày:

Do chỗ lối xóm, quen biết với nhau, ngày 21/8/2020 âm lịch (tức ngày 07/10/2020 dương lịch) bà L có cho bà D, ông T vay số tiền 70.000.000đồng để chăn nuôi, thỏa thuận lãi suất 3%/tháng, bà D, ông T hẹn 6 tháng sẽ hoàn trả tiền cho bà L. Bà D, ông T có viết, ký tên vào biên nhận nợ cho bà L.

Ngày 14/9/2020 âm lịch (tức ngày 30/10/2020 dương lịch), bà L tiếp tục cho bà D, ông T vay số tiền 140.000.000đồng để chăn nuôi, cũng thỏa thuận lãi suất 3%/tháng, bà D, ông T hẹn 06 tháng sẽ hoàn trả cho bà L, khi đó, bà D, ông T có viết, ký tên vào biên nhận nợ cho bà L.

Từ khi vay tiền, bà D và ông T không có trả cho bà L được số tiền vốn và tiền lãi nào. Đến nay thời gian cũng quá lâu nhưng bà D, ông T vẫn không trả số tiền nợ cho bà L.

Do đó, bà L khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Hồng D và ông Lê Văn T liên đới trả cho bà L số tiền vốn vay là 210.000.000đồng (Hai trăm mười triệu đồng) và tiền lãi theo quy định của pháp luật từ ngày 30/10/2020 cho đến khi Tòa xét xử với mức lãi suất 1,66%/tháng. Yêu cầu trả vốn và lãi khi án có hiệu lực pháp luật.

Đối với chữ ký và chữ viết họ tên của ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Hồng D trong 02 biên nhận ngày 21/8/2020 âm lịch và ngày 14/9/2020 âm lịch là do ông bà tự ký và viết họ tên. Mặc dù chữ ký và chữ viết họ tên của ông T có khác nhau, tuy nhiên chữ ký và chữ viết họ tên của bà D là giống nhau, và ông bà là vợ chồng, việc vay tiền để chăn nuôi, là nguồn thu nhập chính trong gia đình. Do đó, đây là nợ chung của ông T và bà D. Bà L không yêu cầu giám định chữ ký và chữ viết họ tên của ông Lê Văn T.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Lê Thị Hồng T1 yêu cầu bà Nguyễn Thị Hồng D, ông Lê Văn T trả số tiền vốn vay 210.000.000đồng và chỉ yêu cầu trả lãi với số tiền 30.000.000đồng, tổng cộng là 240.000.000đồng.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, bị đơn ông Lê Văn T khai như sau:

Ông T và bà Nguyễn Thị Hồng D là vợ chồng. Trước đây (ông không nhớ rõ thời gian) do cần tiền mua gà tre con để nuôi nên vợ chồng ông có mượn bà Đặng Thị Ngọc L số tiền 140.000.000đồng, thỏa thuận 6 tháng trả tiền và lãi suất là 3%/tháng (mượn 02 lần).

Theo ông T, đối với Biên nhận vay mượn tiền ngày 14/9/2020 ÂL do bà L cung cấp cho Tòa án: Chữ ký và ghi họ tên “Nguyễn Thị Hồng D” là của vợ ông ký và viết; còn chữ ký và ghi họ tên “Lê Văn T” không phải là của ông nhưng ông T thừa nhận có mượn bà L số tiền 140.000.000đồng theo biên nhận này.

Đối với Biên nhận vay mượn tiền ngày 21/8/2020 ÂL do bà L cung cấp cho Tòa án thì ông T cho rằng: Chữ ký và ghi họ tên “Lê Văn T” là do ông T ký và viết tên; chữ ký và ghi họ tên “Nguyễn Thị Hồng D” là do vợ ông ký và viết. Tuy nhiên, ông T không thừa nhận có mượn bà L số tiền 70.000.000đồng theo Biên nhận này.

Ngoài ra, ông T còn khai rằng, ông có nhận được Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa của Tòa án, nhưng do bận việc và sức khỏe đi lại không đảm bảo nên ông không đến Tòa án được, còn vợ ông đi làm ăn xa, lâu lâu mới về một lần nên cũng không đến Tòa án được.

Do đó, theo yêu cầu khởi kiện của bà L, ông T chỉ đồng ý trả cho bà L số tiền 140.000.000đồng theo Biên nhận ngày 14/9/2020 ÂL, không đồng ý trả số tiền 70.000.000đồng theo Biên nhận ngày 21/8/2020 ÂL.

Tại phiên tòa, bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng D trình bày: Bà D và ông Lê Văn T là vợ chồng. Bà D thừa nhận do cần tiền để làm vốn chăn nuôi nên vợ chồng bà có vay tiền của bà Đặng Thị Ngọc L nhiều lần, nên gộp lại viết cho bà L Biên nhận vay mượn tiền ngày 21/8/2020 âm lịch với số tiền 70.000.000đồng. Biên nhận này có mẫu đánh máy sẵn, còn nội dung chữ viết bằng bút mực là do bà D tự viết, chữ ký và viết tên Nguyễn Thị Hồng D là do bà D tự ký và viết tên, chữ ký và chữ viết tên Lê Văn T là do ông T ký và viết tên. Sau đó, vào ngày 14/9/2020 âm lịch, vợ chồng bà tiếp tục vay của bà L số tiền 140.000.000đồng, có làm biên nhận cho bà L. Biên nhận này cũng là mẫu đánh máy sẵn, còn nội dung chữ viết bằng bút mực là do bà D tự viết, chữ ký và viết tên Nguyễn Thị Hồng D là do bà ký và viết tên, còn chữ ký và viết tên Lê Văn T không phải tự ông T ký và viết tên, mà bà nhờ người khác ký và viết tên giùm, nhưng ông T vẫn biết có vay bà L số tiền này.

Nay theo yêu cầu khởi kiện của bà L, bà D đồng ý cùng chồng là ông T trả cho bà L số tiền vốn vay là 210.000.000đồng cùng tiền lãi 30.000.000đồng, tổng cộng là 240.000.000đồng, trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã tiến hành triệu tập ông T đến tòa để tham gia phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa, nhưng ông T đều vắng mặt không lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; đối với những người tham gia tố tụng: Phía nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, bị đơn Lê Văn T mặc dù đã được tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do là không chấp hành đúng pháp luật tố tụng. Về nội dung giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Hồng D liên đới trả cho bà L số tiền vốn vay 210.000.000 đồng cùng tiền lãi 30.000.000đồng, trả khi bản án có hiệu lực pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Lê Văn T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Bà L yêu cầu bà D, ông T trả số tiền đã vay cùng tiền lãi với số tổng tiền 240.000.000đồng, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại ấp A, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Ngọc L về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Hồng D, ông Lê Văn T có nghĩa vụ liên đới trả số tiền vốn vay 210.000.000 đồng và tiền lãi 30.000.000đồng, tổng cộng là 240.000.000đồng, yêu cầu trả khi án có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Đối với yêu cầu về số tiền vốn vay:

Đối với Biên nhận vay mượn tiền đề ngày 14/9/2020 ÂL với số tiền 140.000.000đồng: Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, bị đơn ông Lê Văn T thừa nhận có cùng vợ là bà Nguyễn Thị Hồng D vay của bà Đặng Thị Ngọc L số tiền 140.000.000đồng và đồng ý cùng bà D trả cho bà L số tiền này. Tại phiên tòa, bà D cũng thừa nhận có cùng chồng là ông T vay của bà L số tiền 140.000.000đồng và đồng ý trả số tiền này cho bà L.

Đối với Biên nhận vay mượn tiền đề ngày 21/8/2020 ÂL với số tiền 70.000.000đồng: Bị đơn ông Lê Văn T cho rằng không có vay của bà L số tiền 70.000.000đồng nên không đồng ý trả cho bà L số tiền này. Tại phiên tòa, bà D cho rằng do cần vốn chăn nuôi nên vợ chồng bà có vay bà L nhiều lần, nên gộp lại viết cho bà L Biên nhận vay mượn tiền ngày 21/8/2020 ÂL, chữ ký và viết tên của bà và của ông T là do bà và ông T tự ký tự viết tên. Do đó, bà đồng ý cùng ông T trả cho bà L số tiền này. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, ông T cũng thừa nhận chữ ký và chữ viết “Lê Văn T” trong Biên nhận vay mượn tiền đề ngày 21/8/2020 ÂL là do ông T ký và viết tên. Do đó, việc ông T cho rằng có ký tên vào biên nhận vay mượn tiền mà không biết và không vay số tiền này là không có cơ sở.

Căn cứ vào Biên nhận vay mượn tiền đề ngày 21/8/2020 ÂL, Biên nhận vay mượn tiền đề ngày 14/9/2020 ÂL do bà Đặng Thị Ngọc L cung cấp; Căn cứ lời khai của ông Lê Văn T tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo và lời khai của bà Nguyễn Thị Hồng D tại phiên tòa.

Từ những căn cứ và phân tích nêu trên, Hội động xét xử có cơ sở xác định bà D và ông T có vay của bà L số tiền 70.000.000đồng theo Biên nhận vay mượn tiền ngày 21/8/2020 ÂL và số tiền 140.000.000đồng theo Biên nhận vay mượn tiền ngày 14/9/2020 ÂL, tổng cộng là 210.000.000đồng và chưa trả số tiền này cho bà L. Do đó cần buộc bà D, ông T có nghĩa vụ trả số tiền vốn vay 210.000.000đồng cho bà L.

[3.2] Đối với yêu cầu tính lãi:

Căn cứ vào Biên nhận vay mượn tiền ngày 21/8/2020 ÂL và Biên nhận vay mượn tiền ngày 14/9/2020 ÂL thì xác định đây là hợp đồng vay có lãi suất. Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu tính lãi với lãi suất 1,66%/tháng và yêu cầu tính từ ngày 30/10/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm. Ông T không đồng ý trả tiền lãi cho nguyên đơn. Tại phiên tòa, phía nguyên đơn chỉ yêu cầu trả lãi với số tiền 30.000.000đồng, như vậy là thấp hơn mức lãi suất theo yêu cầu khởi kiện ban đầu, phù hợp với quy định pháp luật và đã có lợi cho phía bị đơn. Bị đơn bà D đồng ý trả 30.000.000đồng tiền lãi cho bà L.

Vì thế Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu tính lãi của bà L cho nên cần buộc bà D, ông T có nghĩa vụ trả lãi 30.000.000đồng cho bà L.

[3.3] Đối với yêu cầu về trách nhiệm liên đới của ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Hồng D, Hội đồng xét xử xét thấy:

Xét về quan hệ nhân thân thì ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Hồng D là vợ chồng, cả bà D và ông T đều thừa nhận là vay tiền của bà L là để làm vốn chăn nuôi, phát triển kinh tế gia đình. Do đó, bà D và ông T phải có trách nhiệm liên đới trong nghĩa vụ trả nợ cho bà L.

Vì thế Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Ngọc L, buộc ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Hồng D có trách nhiệm liên đới trả cho bà Đặng Thị Ngọc L số tiền vốn vay 210.000.000đồng cùng tiền lãi 30.000.000đồng, tổng cộng là 240.000.000đồng;

[3.4] Về thời gian trả tiền: Bà L yêu cầu bà D và ông T trả số tiền vốn và lãi cho bà L khi án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở vì phía bà D, ông T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà L nên Hội đồng xét xử buộc bà D, ông T trả cho bà L số tiền vốn vay 210.000.000đồng và lãi 30.000.000đồng, tổng cộng là 240.000.000đồng, thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của bà Đặng Thị Ngọc L được Hội đồng xét xử chấp nhận nên bà Nguyễn Thị Hồng D và ông Lê Văn T phải chịu án phí theo quy định. Tuy nhiên, ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Hồng D là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn tiền án phí.

Bà Đặng Thị Ngọc L là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn tiền tạm ứng án phí, án phí.

[5] Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo là đúng quy định pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 36, 92, 147, 220, 227, 228, 233, 235, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 463, 465, 466, 468 Bộ luật dân sự; Căn cứ Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12, Điều 15, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự; Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc L.

Buộc bà Nguyễn Thị Hồng D và ông Lê Văn T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Đặng Thị Ngọc L số tiền vốn vay là 210.000.000đồng, tiền lãi là 30.000.000đồng, tổng cộng là 240.000.000đồng (Hai trăm bốn mươi triệu đồng).

Thời gian thực hiện trả tiền khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà Đặng Thị Ngọc L có đơn yêu cầu thi hành án đến khi thi hành án xong, nếu bà Nguyễn Thị Hồng D và ông Lê Văn T chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng còn phải trả lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí: Ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Hồng D là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn tiền án phí.

Bà Đặng Thị Ngọc L là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn tiền tạm ứng án phí, án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với ông Lê Văn T vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 214/2022/DS-ST

Số hiệu:214/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về