Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 214/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 214/2022/DS-PT NGÀY 10/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 144/2022/TLPT-DS ngày 22 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 106/2022/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 129/2022/QĐ-PT ngày 05 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Ngọc T, sinh năm 1955 (có mặt).

Địa chỉ: Đường T, khóm 7, phường 8, thành phố C, tỉnh C. Chỗ ở: khóm 2, phường 8, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Bà Diệp Lệ H, sinh năm 1954. Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện T, tỉnh C ..

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Lê Minh C, sinh năm 1965 (có mặt). Bà Cao Thị N, sinh năm 1991 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: số **, đường N, Khóm 8, phường 5, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Ông Lê Minh C là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đại diện cho Nguyên đơn trình bày: Do có sự quen biết với nhau giữa bà Trần Ngọc T với bà Diệp Lệ H nên bà T có cho bà H mượn tiền nhiều lần từ ngày 01/10/2019 đến ngày 24/02/2020, tổng số tiền là 148.000.000 đồng có làm biên nhận vào ngày 10/6/2020 và hẹn đến ngày 01/7/2020 trả nhưng không trả. Do chưa trả nên 17/8/2020, đôi bên tiếp tục làm biên nhận vay đối với số tiền 148.000.000 đồng và lãi suất tự thỏa thuận, hai bên đến Văn phòng công chứng Đất Mũi để lập hợp đồng vay tài sản với nội dung bà Trần Ngọc T cho bà Diệp Lệ H vay số tiền 148.000.000 đồng, thời hạn vay 03 tháng, lãi suất các bên tự thỏa thuận không trái với quy định lãi suất của Nhà nước. Sau khi thiết lập hợp đồng đến nay bà H không thực hiện trả vốn và trả lãi.

Nay bà Trần Ngọc T yêu cầu bà Diệp Lệ H trả cho bà số tiền vốn là 148.000.000 đồng, yêu cầu tính lãi suất theo quy định của nhà nước từ ngày 01/10/2019 đến ngày 24/02/2020.

Đại diện cho bị đơn trình bày: Thống nhất trình bày của nguyên đơn về thời gian ký kết hợp đồng vay tiền ngày 17/8/2020 tại Văn phòng công chứng Đất Mũi về nội dung, số tiền vay 148.000.000 đồng. Tuy nhiên, chỉ ký hợp đồng về mặt hình thức chứ bà H không có nhận tiền của bà T và bà H cũng không có quen biết với bà T mà bà H có quen biết và giao dịch với bà Trần Ngọc Sương (chị ruột của bà T). Khi bà Sương chết, do sự việc khiếu kiện đòi lại Khách Sạn Cà Mau do nhà nước quản lý từ năm 1975 còn dở dang nên bà H tiếp tục ký hợp đồng vay tài sản với bà T 148.000.000 đồng mục đích để đi khiếu kiện tiếp nhưng thực chất chưa nhận tiền.

Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 106/2022/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời đã quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Ngọc T. Buộc bà Diệp Lệ H phải trả cho bà Trần Ngọc T số tiền 148.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi tám triệu đồng).

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Ngọc T về việc đòi bà Diệp Lệ H phải trả lãi suất trên số tiền 148.000.000 đồng tính từ ngày 01/10/2019 đến ngày 24/02/2020.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí, trường hợp thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định.

Ngày 26/5/2022, ông Lê Minh C, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa phúc thẩm ông giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm: Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Minh C, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 106/2022/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn, do ông Lê Minh C là người đại diện theo ủy quyền thực hiện nhận thấy:

Tại Giấy ủy quyền của bà Diệp Lệ H ủy quyền ngày 28/2/2022 (BL 45, 46), ủy quyền cho ông Lê Minh C nội dung ghi: “Được quyền nhân danh bà Diệp Lệ H nộp đơn yêu cầu, đơn khiếu nại, đơn kháng cáo bản án” phạm vi ủy quyền là “nộp đơn” chứ không phải đứng đơn kháng cáo, như vậy có nghĩa ông Lê Minh Chấu đứng đơn kháng cáo và ký vào đơn kháng cáo là vượt quá phạm vi ủy quyền. Việc cấp sơ thẩm chấp nhận và thông báo cho ông C nộp tạm ứng án phí phúc thẩm là không phù hợp luật định; cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

Về nội dung kháng cáo đề nghị xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng: Giao dịch vay tiền giữa nguyên đơn và bị đơn được thể hiện tại hợp đồng vay tài sản ngày 17/8/2020 và thực hiện công chứng tại Văn phòng công chứng Đất Mũi, trong gia đoạn xét xử sơ và phúc thẩm bị đơn thừa nhận chữ ký, chữ viết tên trong hợp đồng đúng là của bị đơn. Song, bị đơn cho rằng bị đơn chỉ có quen biết và giao dịch với bà Trần Ngọc Sương là chị bà T, không có quen biết với bà T nên không có giao dịch vay, mượn tiền gì với bà T, nếu có thiếu tiền thì chỉ thiếu tiền bà Sương, hợp đồng vay tài sản ký nhưng thực chất bà H không có nhận tiền; lời trình bày của bị đơn không được nguyên đơn thừa nhận, tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn cũng không đưa ra chứng cứ chứng minh trình bày của mình, nhận thấy lời trình bày của bị đơn là không đủ cơ sở để chứng minh. Do đó, kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là không có căn cứ để chấp nhận.

Từ những nhận định trên, cấp phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

[2] Đối với yêu cầu lãi suất chậm trả của nguyên đơn, cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu nhưng lại không nói rõ số tiền là bao nhiêu tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn cũng không xác định được số tiền cụ thể là bao nhiêu; chỉ nói thời gian yêu cầu tính lãi, đây là thiếu sót của cấp sơ thẩm vì trong vụ án dân sự phải xác định tranh chấp một tài sản cụ thể (giá trị tài sản). Tuy nhiên sau khi xét xử sơ thẩm nguyên đơn không kháng cáo và nguyên đơn cũng thuộc trường hợp được miễn án phí. Nên cần nêu để cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.

[3] Đối với án phí sơ, phúc thẩm nguyên và bị đơn đều thuộc trường hợp miễn án phí theo qui định và có yêu cầu nên được miễn án phí. Đối với tạm ứng án phí phúc thẩm, ông C đã đại diện cho bị đơn tạm nộp theo thông báo của Tòa án. Nhận thấy ông C chỉ là người đại diện cho bị đơn, khi có kháng cáo là người ủy quyền có trách nhiệm về án phí, không thuộc trách nhiệm người nhận ủy quyền, cấp sơ thẩm thông báo cho ông C (người đại diện theo ủy quyền) nộp là không đúng qui định. Trong trường hợp này bà H là người được miễn án phí nên không phải nộp, số tiền dự nộp được nhận lại.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 106/2022/DS-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Ngọc T. Buộc bà Diệp Lệ H phải trả cho bà Trần Ngọc T số tiền 148.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi tám triệu đồng).

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Ngọc T về việc buộc bị đơn bà Diệp Lệ H phải trả lãi suất theo quy định của nhà nước trên số tiền 148.000.000 đồng tính từ ngày 01/10/2019 đến ngày 24/02/2020.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng phải chịu lãi suất chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

2. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Diệp Lệ H và bà Trần Ngọc T được miễn.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Diệp Lệ H được miễn. Ngày 06/6/2022, ông Lê Minh C là người đại diện theo ủy quyền của bà đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004916 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, được nhận lại.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

455
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 214/2022/DS-PT

Số hiệu:214/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:10/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về