Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 202/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 202/2023/DS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 306/2023/TLST-DS ngày 08 tháng 6 năm 2023 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 419/2023/QĐXXST-DS ngày 02 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt S, sinh năm 1977 (có mặt). Địa chỉ cư trú: Khóm X, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.

- Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Duy K, sinh năm 1978 (vắng mặt).

2. Bà Trịnh Thị H, sinh năm 1980 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ cư trú: Khóm Y, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 22 tháng 5 năm 2023 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Việt S trình bày: Vào ngày 18 tháng 01 năm 2023, bà Trịnh Thị H có vay của ông số tiền 25.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận mỗi tháng 1,66%, quá trình vay tiền bà H có ký vào biên nhận và cam kết thanh toán vào ngày 20 tháng 02 năm 2023. Sau khi vay tiền bà H không trả vốn và lãi như đã cam kết, ông nhiều lần yêu cầu bà Huyển trả tiền nhưng bà H cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Bà H vay tiền trong thời kỳ hôn nhân với ông Nguyễn Duy K và vay tiền sử dụng chung trong gia đình nên ông yêu cầu ông Nguyễn Duy K và bà Trịnh Thị H trả cho ông số tiền 25.000.000 đồng và lãi suất theo thỏa thuận tính từ ngày vay cho đến nay.

- Tại biên bản ghi lời khai ngày 21 tháng 8 năm 2023 bị đơn bà Trịnh Thị H trình bày: Trước đây bà có vay tiền của ông S hai lần mỗi lần 10.000.000 đồng, tổng cộng số tiền 20.000.000 đồng. Đến ngày 18 tháng 01 năm 2023 ông S tính tiền lãi 5.000.000 đồng nên bà có làm biên nhận nhận nợ với số tiền 25.000.000 đồng. Bà thừa nhận chữ ký và chữ viết tên Trịnh Thị H trong biên nhận do ông S cung cấp là chữ ký và chữ viết của bà. Bà vay tiền của ông S để trả tiền hụi mà trước đây bà làm chủ hụi còn nợ, không liên quan đến ông K chồng bà. Bà đồng ý trả tiền cho ông S, bà yêu cầu xin phần tiền lãi, do hoàn cảnh bà hiện nay gặp nhiều khó khăn nên bà yêu cầu trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng.

- Bị đơn ông Nguyễn Duy K đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng nhưng ông K vắng mặt không lý do và không cung cấp lời khai, chứng cứ về việc khởi kiện của ông S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Việt S khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Duy K, bà Trịnh Thị H trả tiền vay và lãi suất. Do đó, đây là tranh chấp dân sự về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Nguyễn Duy K, bà Trịnh Thị H là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông Nguyễn Duy K, bà Trịnh Thị H.

[3]. Tại phiên tòa ông S cho rằng bà Trịnh Thị H có vay số tiền 25.000.000 đồng, ông S yêu cầu ông K, bà H trả số tiền 25.000.000 đồng và lãi suất theo thỏa thuận tính từ khi vay cho đến khi xét xử s ơ thẩm. Tại biên bản ghi lời khai 21 tháng 8 năm 2023 bà Trịnh Thị H thừa nhận có ký biên nhận nhận nợ với số tiền 25.000.000 đồng, bà đồng ý trả cho ông S số tiền 25.000.000 đồng, bà xin tiền lãi và yêu cầu trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định bà Trịnh Thị H có vay của ông S số tiền 25.000.000 đồng là thực tế có xảy ra . Đối với ông Nguyễn Duy K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng để hòa giải và xét xử nhưng ông K không cung cấp lời khai cho Tòa án và không có ý kiến đối với yêu cầu của ông S. Bà H cho rằng vay tiền để trả nợ và bà H vay trong thời kỳ hôn nhân với ông Nguyễn Duy K nên đây là nợ chung của ông K và bà H, Do đó, ông S yêu cầu ông K, bà H trả số tiền gốc 25.000.000 đồng là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về lãi suất: Lãi suất thỏa thuận giữa ông S với bà H mỗi tháng 1,66% phù hợp với khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự nên được chấp nhận. Lãi tháng là 1,66%, lãi ngày là 0,055%. Ngày bà H vay tiền của ông S là ngày 18 tháng 01 năm 2023 đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 06 tháng 9 năm 2023 là 07 tháng 18 ngày. Như vậy tiền lãi sẽ là (25.000.000đ x 07 tháng x 1,66%) + (25.000.000đ x 18 ngày x 0.055%) = 3.125.500 đồng. Như vậy ông K, bà H có nghĩa vụ trả cho ông S tổng gốc và lãi với số tiền 28.125.500 đồng.

[5]. Về án phí: Do yêu cầu của ông Nguyễn Việt S được chấp nhận nên ông S không phải chịu án phí, ông S nộp tiền tạm ứng án phí 668.000 đồng được nhận lại. Ông Nguyễn Duy K, bà Trịnh Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 1.406.275 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 463, Điều 466, Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự và áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Việt S. Buộc ông Nguyễn Duy K, bà Trịnh Thị H có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền 28.125.500 đồng (hai mươi tám triệu một trăm hai mươi lăm ngàn năm trăm đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

Ông Nguyễn Việt S không phải chịu án phí, Ông S đã nộp tiền tạm ứng án phí 668.000 đồng (sáu trăm sáu mươi tám ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0018980 ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân; Ông S được nhận lại khi án có hiệu lực pháp luật.

Buộc ông Nguyễn Duy K, bà Trịnh Thị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 1.406.275 đồng (một triệu bốn trăm lẽ sáu ngàn hai trăm bảy mươi lăm đồng).

Án xử sơ thẩm, ông Nguyễn Việt S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Duy K, bà Trịnh Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 202/2023/DS-ST

Số hiệu:202/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về