Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 202/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ LÁCH, TỈNH BN TRE

BẢN ÁN 202/2022/DS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 158/2022/TLST-DS ngày 13 tháng 7 năm 2022 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118B/2022/QĐXXST-DS, ngày 12 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 67/QĐST -DS ngày 30/8/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị X, Sinh năm 1967; Địa chỉ: ấp LH, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre. Có đơn xin vắng mặt.

2. B đơn:

- Ông Phan Thanh T, Sinh năm 1978. Vắng mặt.

- Bà Liêu Thị Cẩm L, sinh năm 1987. Vắng mặt.

Địa chỉ: số 43/75 ấp SL, xã SĐ, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bn tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà Trần Thị X trình bày:

Vào tháng 4/2021 bà có cho ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L vay số tiền 20.000.000 đồng, mục đích vay tiền để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt chung trong gia đình. Hai bên thỏa thuận thời hạn vay là 02 tháng, lãi suất vay 2.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày, việc vay tiền không có làm giấy tờ gì. Trong thời gian hai bên thực hiện hợp đồng thì ông T, bà L có trả cho bà số tiền là 5.000.000 đồng, còn nợ lại 15.000.000 đồng hai bên có lập biên nhận vào ngày 09/3/2022, sau đó ông T, bà L có trả tiếp cho bà số tiền 500.000 đồng và nợ lại 14.500.000 đồng. Ông T, bà L có cam kết trả cho bà mỗi tháng 500.000 đồng vào ngày 09 hàng tháng nhưng không thực hiện.

Bà yêu cầu ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L phải liên đới trách nhiệm giao trả cho bà số tiền 14.500.000 đồng, bà không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng ông T, bà L vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không cung cấp chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hụi” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về thẩm quyền: Bị đơn ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L có đăng ký thường trú tại ấp SL, xã SĐ, huyện C, tỉnh Bến Tre; do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách theo quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về tố tụng: Bà Trần Thị X có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng ông T, bà L vẫn vắng mặt không có lý do, vì vậy căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà Trần Thị X, ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L.

[4] Về nội dung vụ án: Bà Trần Thị X yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L phải liên đới nghĩa vụ giao trả cho bà số tiền 14.500.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

[5] Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là “Biên nhận nợ ngày 09/3/2022”. Xét thấy trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa ông T, bà L đều vắng mặt. Tuy nhiên ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L vẫn sinh sống ở địa phương đã nhận được bản sao tài liệu chứng cứ là “Biên nhận nợ ngày 09/3/2022” là căn cứ khởi kiện bà X; Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt không có lý do; ông T, bà L cũng không có ý kiến phản đối gì đối với chứng cứ và yêu cầu khởi kiện bà X. Do đó có căn cứ xác định hiện nay ông T, bà L còn nợ bà X số tiền 14.500.000 đồng.

[6] Xét thấy hợp đồng vay tài sản và góp hụi giữa bà Trần Thị X với ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L được xác lập trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, không bị lừa dối hoặc bị ép buộc và không vi phạm quy định tại Điều 116, Điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên được xem là hợp đồng hợp pháp. Do ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho bà Trần Thị X trong một thời gian dài đã ảnh hưởng đến quyền L của bà X. Lẽ đó, việc bà Trần Thị X yêu cầu ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L phải liên đới có nghĩa vụ trả cho bà X số tiền 14.500.000 đồng là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Do bà Trần Thị X không yêu cầu tính lãi nên được Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí tòa án;

Ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L phải liên đới nộp án phí theo quy định của pháp luật được tính như sau: 14.500.000 đồng x 5% = 725.000 đồng.

[9] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, điểm b, khoản 1 Điều 35, 39, 147, điểm a, b, khoản 2 Điều 227, 228, 238, 266 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 463, Điều 466, Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị X. Buộc ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Trần Thị X số tiền 14.500.000 đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:

Ông Phan Thanh T, bà Liêu Thị Cẩm L phải liên đới nộp là 725.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.

Bà Trần Thị X được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre hoàn trả số tiền 362.000 đồng theo biên lai thu số 0006991 ngày 07/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.

3. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.

Trường hợp bản, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 202/2022/DS-ST

Số hiệu:202/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Lách - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về