TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 19/2024/DS-PT NGÀY 30/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử phúc thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 135/2023/TLPT-DS ngày 07 tháng 12 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do Bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 12/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh H bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐ-PT ngày 05 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Q - Sinh năm 1970.
Địa chỉ: Khu phố A, phường Q, thành phố S, tỉnh H (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà Q: Chị Nguyễn Thị X - sinh năm 1999. Địa chỉ: Khu phố X, phường Q, thành phố S, tỉnh H (có mặt).
* Bị đơn: Bà Lê Thị Q1 - Sinh năm 1978 (có mặt).
Ông Trần Văn H - Sinh năm 1976 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Khu phố A, phường Q, thành phố S, tỉnh H. (Ông H đã ủy quyền cho bà Q1).
* Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Hồ thị Q2 và bị đơn bà Lê Thị Q1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Hồ Thị Q trình bày:
Do có mối quan hệ thân quen tình làng nghĩa xóm nên đã tin tưởng cho vợ chồng bà Lê Thị Q1, ông Trần Văn H vay tiền để kinh doanh tại nhà nhiều lần, bắt đầu từ năm 2008. Hai bên thống nhất phương án trả nợ là khi nào gia đình bà cần tiền thì ông H, bà Q1 phải có trách nhiệm trả lại cho bà. Đến khi cần tiền bà đã trực tiếp đến nhà yêu cầu trả nợ đồng thời thông báo bằng văn bản nhắc nợ nhưng ông H và bà Q1 khất lần mãi cho đến nay đã 13 năm trôi qua vẫn không trả nợ cho. Tại giấy vay tiền ngày 30/4/2010 âm lịch là bà Q1 và ông H viết tại nhà bà Quảng c dồn thành một khoản nợ và ký nhận vay tôi tổng số tiền 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng), sau đó mang lên nhà đưa cho bà. Số tiền này hoàn toàn là tiền gốc, không có lời lãi gì.
Quá trình giải quyết vụ án bà Q1 đến nhà xin trả cho bà 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) còn lại 97.500.000đ (chín bảy triệu đồng) xin không phải trả nhưng bà không đồng ý. Nay, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông H và bà Q1 phải có trách nhiệm trả lại cho bà số tiền nợ gốc chưa trả là 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi.
* Tại các bản tự khai cũng như quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Trần Văn H và bà Lê Thị Q1 trình bày:
- Ông H khẳng định không vay tiền của bà Hồ Thị Q, chữ ký tại các giấy vay tiền không phải chữ ký của ông H.
- Bà Q1 thừa nhận có vay và đang nợ tiền của bà Q. Lý do vay tiền của bà Q là do năm 2008, 2009 gia đình bà làm ăn buôn bán kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật và giống cây trồng, thức ăn chăn nuôi tại nhà, do thiếu vốn nên có vay tiền của bà Q nhưng chỉ vay 82.000.000đ (tám hai triệu đồng) tiền gốc, không phải số tiền 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng) như bà Q khởi kiện đòi nợ. Trong số tiền bà Q yêu cầu trả nợ bao gồm cả tiền lãi cộng dồn. Bà xuất trình các giấy vay tiền của bà Q cụ thể như sau: Giấy vay ngày 26/11/2008 là: 9.000.000đồng; Giấy vay ngày 15/01/2009 là: 30.000.000đồng; Giấy vay ngày 24/01/2009 là: 11.000.000đồng; Giấy vay ngày 24/02/2009 là: 12.000.000đồng và Giấy vay ngày 21/5/2010 là: 20.000.000đồng. (Số tiền 20.000.000đ là do bà Q vay ngân hàng và cho bà vay lại, bà đã cung cấp bản tất toán đã trả cho Ngân hàng). Tổng cộng là 82.000.000đ (tám hai triệu đồng).
Quá trình buôn bán ổn định bà vẫn trả tiền lãi cho bà Q đầy đủ, đến năm 2011 do vỡ nợ trong làm ăn kinh doanh nên bà chưa có tiền lãi để trả cho bà Q, nhiều lần bà Q đến nhà bà yêu cầu trả nợ cả gốc lẫn lãi nhưng lúc đó bà chưa xoay sở được, bà Q đã bắt bà cộng lãi từ tháng nọ đến tháng kia rồi viết thành một «Giấy vay nợ». Thời kỳ đầu bà Q cho vay và yêu cầu trả lãi xuất là 2%/ngày, những ngày sau đó là 2,5%/ngày. Khi đến nhà bà đòi nợ bà Q đã thuê đầu gấu xã hội đen uy hiếp bà, hắt nước bẩn vào nhà bà, gây tâm lý hoang mang và bắt bà ký giấy vay nợ thành một lần là 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng), trong đó có cả tiền lãi.
Bà đã nói chuyện và đề nghị trả cả gốc và lãi cho bà Q 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) nhưng bà Q không đồng ý. Hơn nữa bà cũng đồng ý nếu phải trả số tiền 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng) thì cho bà được trả dần nhưng bà Q cũng không đồng ý và buông lời khó nghe nên từ đó bà không qua lại nhà bà Q nữa. Bà đề nghị Tòa án xem xét để bà có một phương án trả nợ hợp lý để hai gia đình còn giữ được mối quan hệ tình làng nghĩa xóm. Nếu không thống nhất được phương án trả nợ thì bà sẻ kiện bà Q về tội cho vay nặng lãi theo quy định của pháp luật. Còn chữ ký của ông H tại giấy vay tiền ngày 30/4/2010 âm lịch là do bà đã giả mạo chữ ký ông H (chồng bà).
Tại Bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 12/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố sầm Sơn, tỉnh H đã áp dụng: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự(BLTTDS); Điều 463; Điều 466 Bộ luật Dân sự (BLDS); Điều 19; Điều 24 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị Q. Buộc ông Trần Văn H và bà Lê Thị Ql, phải có trách nhiệm trả nợ cho bà Hồ Thị Q tổng số tiền nợ gốc là 197.500.000đ (một trăm, chín mươi bảy, năm trăm nghìn đồng), không phải trả lãi suất. Ngoài ra Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi xử sơ thẩm, ngày 20/10/2023, bà Nguyễn Thị X (người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Hồ Thị Q) kháng cáo đề nghị tòa án phúc thẩm tuyên trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 BLDS.
Ngày 25/10/2023, bị đơn bà Lê Thị Q1 kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố sầm Sơn. Tại phiên toà phúc thẩm: Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, các đương sự kháng cáo không rút đơn kháng cáo, không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Thanh Hoá tham gia phiên toà có quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của BLTTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của BLTTDS về phiên tòa phúc thẩm. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của BLTTDS. về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 308 và Điều 309 BLTTDS quyết định theo hướng: Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hồ Thị Q. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Q1. Sửa phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 12/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố sầm Sơn, tỉnh H về tuyên lãi suất chậm trả. Về án phí phúc thẩm nguyên đơn kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm, bị đơn bà Lê Thị Q1 kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến tranh luận của các đương sự và quan điểm của Đại diện VKSND tỉnh Thanh Hoá tham gia phiên tòa về việc giải quyết vụ án, HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật: Bà Hồ Thị Q cho bà Lê Thị Q1 và ông Trần Văn H vay tiền nhiều lần để kinh doanh, buôn bán với số tền gốc là 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng). Theo thoả thuận trả nợ bà đã yêu cầu trả nợ nhiều lần (đến nhà nhắc trực tiếp và gửi văn bản nhắc nợ) nhưng ông H và bà Q1 khất lần không trả nợ. Bà Q1 thừa nhận có vay và đang còn nợ bà Q nhưng số tiền là 82.000.000đ (tám hai triệu đồng) không phải số tiền như bà Q yêu cầu. Hai bên không thống nhất được với nhau về số tiền nợ và phương án trả nợ nên bà Q khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông H và bà Q1 phải có trách nhiệm trả cho bà số tiền nợ gốc, bà không yêu cầu lãi suất. Do đó có đủ căn cứ để xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoan 1 Điều 39 BLTTDS.
[2] Xét tính hợp pháp của kháng cáo:
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/10/2023, chị Nguyễn Thị X (người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Hồ Thị Q) kháng cáo; Ngày 25/10/2023, bà Lê Thị Quảng k và đã nộp tiền tạm ứng án phí theo đúng quy định tại Điều 273; Điều 275 và Điều 276 BLTTDS nên đơn kháng cáo là hợp pháp, đúng quy định của pháp luật được thụ lý, xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[3] Xét kháng cáo của các đương sự:
[3.1] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Hồ Thị Q: Bà Q kháng cáo Bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 12/10/2023 của TAND TP S với nội dung đề nghị tòa án phúc thẩm tuyên trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 BLDS.
HĐXX nhận thấy tại Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, tại điểm b khoản 1 Điều 13 hướng dẫn việc quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án như ... “trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cụ thể tại Điều 357 BLDS quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Trong vụ án này nguyên đơn bà Hồ Thị Q yêu cầu vợ chồng ông H, bà Q1 phải thanh toán số nợ gốc 197.500.000 đồng (một trăm, chín mươi bảy, năm trăm nghìn đồng), không phải trả lãi suất. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện, buộc ông H, bà Q1 phải thanh toán số nợ gốc trên nhưng không ghi nhận và giải thích về quyền yêu cầu thi hành án dân sự là thiếu sót, vi phạm Điều 483 BLTTDS. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hồ Thị Q. Sửa lời tuyên của Bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 12/10/2023 của TAND TP sầm Sơn về việc tuyên trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chậm trả theo Điều 357 BLDS.
[3.2] Về kháng cáo của bị đơn, bà Lê Thị Q1: Bà Q1 cho rằng số tiền thực tế mà bà vay đang nợ là 82.000.000đ (tám hai triệu đồng) theo các giấy vay nợ đã cung cấp cho Tòa án và trong giấy vay đều ghi lãi suất 2%/ngày.
Xét thấy, tại các giấy vay tiền bà Q cung cấp thể hiện nội dung bà Q1 có vay tiền, ghi lãi suất nhưng chỉ có chữ ký của mình bà Q1, không có chữ ký của bà Q (kể các các giấy vay tiền khác do bà Q1 cung cấp cho Tòa án). Mặt khác, bà Q1 không cung cấp được các tài liệu chứng cứ về việc thỏa thuận lãi suất hay việc thanh toán lãi cho bà Q. Tại cấp phúc thẩm, bà Q vẫn khẳng định đã cho vợ chồng bà Q1 vay tiền nhiều lần. Giấy vay tiền đề ngày 30/4/2010 (âm lịch) là do hai bên đều thống nhất cộng tất cả các khoản nợ còn lại tổng số tiền là 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng), sau đó để vợ chồng bà Q1 ký xong rồi cầm lên nhà đưa cho bà Q. Mặt khác bà Q1 cũng thừa nhận có vay tiền của bà Q nhiều lần, đã trả lãi hàng tháng, hiện tại bà vẫn đang còn nợ tiền gốc chưa trả. Tuy nhiên bà không đồng ý với số tiền nợ gốc như bà Q đang khởi kiện mà chỉ có 82.000.000đ (tám hai triệu đồng) theo như các giấy vay tiền (chỉ mình phía bà Q1 ký nhận) bà cung cấp cho Tòa án. Số tiền 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng) bà Q yêu cầu bà trả thì trong đó gồm có số tiền gốc 82.000.000đ (tám hai triệu đồng) và tiền lãi cộng dồn của các năm trước đó. Tuy nhiên theo giấy vay tiền ghi tổng số tiền và ghi lãi suất 2%/ngày nhưng bà Q khởi kiện chỉ yêu cầu trả số tiền gốc, không yêu cầu tính lãi, hơn nữa bà Quảng củng không có tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh việc bà đã trả lãi cho bà Q hay bà Q đã nhận số tiền lãi ngày hàng tháng bà đã trả. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không có cơ sở xem xét về số tiền gốc đang nợ như bà Q1 kháng cáo.
Bà Q1 còn nại rằng việc vay nợ chỉ mình bà biết, chồng bà là ông Trần Văn H không biết bà vay như thế nào, những chữ ký của ông H trong các giấy vay tiền đều do bà tự ký nên đó ông H chồng bà không phải là đồng bị đơn, không liên quan đến khoản nợ giữa bà và bà Q.
HĐXX nhận thấy theo Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, là những khoản nợ phát sinh từ giao dịch của vợ chồng hoặc những khoản nợ đứng tên một trong hai bên vợ hoặc chồng sử dụng vì mục đích chung cho gia đình, con cái. Hay đối với khoản nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì hai bên phải cùng có nghĩa vụ chịu trách nhiệm liên đới theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật Hôn nhân và gia đình. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, nợ chung của vợ chồng phát sinh không nhất thiết phải cần hai bên cùng thỏa thuận xác lập mà có thể do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình. Như vậy, căn cứ vào các phân tích trên xác định việc bà Q1 vay tiền để kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng và thức ăn chăn nuôi tại nhà nhằm phát triển khối tài sản chung và để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình trong thời kỳ hôn nhân nên khoản nợ trên là nợ chung của vợ chồng và hai bên phải cùng có nghĩa vụ chịu trách nhiệm liên đới trả nợ theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình [4] Cấp sơ thẩm đã căn cứ giấy vay tiền đề ngày 30/4/2010 (âm lịch) do bị đơn bà Lê Thị Quảng v vay nợ và ký nhận nợ, tổng số tiền là 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng) để xác định tư cách bị đơn và buộc bị đơn là vợ chồng ông H, bà Q1 phải thanh toán số tiền 197.500.000đ (một trăm, chín mươi bảy, năm trăm nghìn đồng) là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật. HĐXX không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của bà Lê Thị Q1. Cấp sơ thẩm tuyên xử buộc bà bà Lê Thị Q1 và ông Trần Văn H phải trả cho bà Hồ Thị Q toàn bộ số tiền nợ gốc trên theo yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị Q là có căn cứ pháp luật.
[5] Về tiền lãi: Bà Hồ Thị Q không yêu cầu bà Lê Thị Q1 phải trả lãi của khoản tiền vay đang nợ. Việc bà Q không yêu cầu tính lãi suất của số tiền nợ là hoàn toàn tự nguyện, nên cấp sơ thẩm không xem xét là phù hợp.
[6] Từ những phân tích và nhận định trên, HĐXX nhận thấy kháng cáo của nguyên đơn bà Hồ Thị Q là có căn cứ chấp nhận, kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Q1 là không có cơ sở để chấp nhận. Sửa lời tuyên của Bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 12/10/2023 của Toà án nhân dân thành phố sầm Sơn, tỉnh H. Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Thanh Hoá tại phiên toà phù hợp với nhận định của HĐXX và có căn cứ pháp luật nên cần chấp nhận.
[7] Về án phí phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hồ Thị Q nên bà Q không phải chịu án phí phúc thẩm, trả lại cho bà Q số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm bà đã nộp. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Q1 nên bà Q1 phải chịu án phí phúc thẩm dân sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1, khoản 2 Điều 308; Điều 309; Khoản 3 Điều 26, Điều 37 và Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 463, Điều 466 và khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự; Điều 27; Điều 30 và Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình.
Xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, bà Lê Thị Q1. Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hồ Thị Q. Sửa một phần Bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 12/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố sầm Sơn, tỉnh H. Buộc bà Lê Thị Q1 và ông Trần Văn H phải có trách nhiệm trả nợ cho Bà Hồ Thị Q tổng số tiền nợ gốc là 197.500.000đ (một trăm chín bảy triệu, năm trăm nghìn đồng), không tính lãi suất.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà Q có đơn yêu cầu và được Cơ quan Thi hành án ra quyết định thi hành án, nếu bà Q1, ông H không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì hàng tháng phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Án phí phúc thẩm dân sự: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bà Lê Thị Q1 phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Q1 đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0013820 ngày 06/11/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố S, tỉnh H. Bà Hồ Thị Q không phải chịu án phí phúc thẩm. Trả lại cho bà Q 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) số tiền tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2021/0013803 ngày 25/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố sầm Sơn, tỉnh H.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 19/2024/DS-PT
Số hiệu: | 19/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về