Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 189/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 189/2022/DS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận 8, thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án thụ lý số 330/2020/TLST-DS ngày 01 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2022/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 03 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2022/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 04 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông H; địa chỉ: đường L, phường 13, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Bị đơn: Bà Đ; địa chỉ: đường B, phường 16, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai, nguyên đơn là ông H trình bày như sau: Ngày 02/12/2019 ông và bà Đ có thỏa thuận là ông cho bà Đ vay 312.000.000 đồng, thời gian vay từ 7 ngày đến 10 ngày thì phải trả tiền gốc và tiền lời là 10% vốn, tương đương 31.200.000 đồng, nhưng sau đó vào ngày 11/2/2020 bà Đ chỉ trả lại một phần tiền vốn là 151.450.000 đồng, còn vốn là 160.550.000 đồng và tiền lãi thì đến nay vẫn chưa trả. Khi hòa giải tại Ủy ban nhân dân Phường 16, ông và bà Đ có thỏa thuận là bà Đ sẽ trả cho ông tổng cộng vốn và lãi là 200.000.000 đồng theo phương thức trả mỗi tháng 10.000.000 đồng cho đến khi đủ 200.000.000 đồng nhưng sau đó bà Đ cũng không thực hiện, ông yêu cầu bà Đ trả lại cho ông vốn và lời theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/12/2020, bị đơn là bà Đ trình bày: Ngày 02/12/2019, bà có vay của ông H số tiền 100.000.000 đồng, thỏa thuận lãi 1 tuần là 10.000.000 đồng, ngày 14/12/2019 bà vay thêm 200.000.000 đồng, tổng cộng tiền gốc là 300.000.000 đồng và tiền lãi 12 ngày chưa trả là 12.000.000 đồng nên tính chung vào là 312.000.000 đồng. Sau đó bà có trả cho ông H lần 1 là 151.450.000 đồng, trả lần 2 là 10.550.000 đồng, bà công nhận còn nợ ông H 150.000.000 đồng tiền gốc tính từ ngày 11/2/2020, bà không chấp nhận yêu cầu của ông H buộc bà trả 200.000.000 đồng mà chỉ đồng ý trả vốn 150.000.000 đồng. Nhưng tại phiên hòa giải ngày 28/1/2021 bà Đ công nhận còn nợ ông Nam 161.000.000 đồng tiền gốc, bà yêu cầu được trả mỗi tháng 10.000.000 đồng cho đến khi đủ 161.000.000 đồng.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 8: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân theo pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Ông H có đơn khởi kiện về việc đòi lại tiền cho vay và lãi. Xét thấy, bị đơn cư trú tại Quận 8; căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về việc xét xử vắng mặt các đương sự: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai mà vắng mặt nên phiên tòa tiến hành theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự .

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Căn cứ lời khai của các đương sự và nội dung giấy mượn tiền thì có căn cứ xác định sự việc như sau: Ngày 02/12/2019, bà Đ có thỏa thuận vay của ông H số tiền 312.000.000 đồng, thời gian vay là 2 tháng sau vào ngày 03/02/2020 sẽ trả vốn và lãi (không thỏa thuận cụ thể mức lãi suất). Ngày 11/2/2020 bà Đ chỉ trả lại một phần tiền vốn là 151.450.000 đồng, còn lại 160.550.000 đồng tiền gốc và tiền lãi thì đến nay vẫn chưa trả. Như vậy, đây là hợp đồng vay tài sản có thời hạn và có lãi. Do không xác định rỏ mức lãi suất nên nay có tranh chấp thì lãi suất trong hạn được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự là 10%/năm, lãi suất quá hạn là 15%/năm.

Như vậy, bị đơn phải trả cho nguyên đơn các khoản nợ sau:

- Nợ gốc còn lại là 160.550.000 đồng.

- Lãi trong hạn là 312.000.000 đồng x 10% x 2/12 = 5.200.000 đồng.

- Lãi trên nợ lãi trong hạn chậm trả tính từ ngày 03/2/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là (5.200.000 đồng x 10% x 2) + (5.200.000 đồng x 10% x 105/360) = 1.191.500 đồng.

- Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả tính từ ngày 03/2/2020 đến ngày 11/2/2020 là 312.000.000 đồng x 15% x 8/360 = 1.040.000 đồng.

- Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả tính từ ngày 12/2/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là (160.550.000 đồng x 15% x 2) + (160.550.000 đồng x 15% x 96/360) = 54.587.000 đồng.

Tổng cộng số tiền bị đơn phải trả là 160.550.000 đồng + 5.200.000 đồng + 1.191.500 đồng + 1.040.000 đồng + 54.587.000 đồng = 222.568.000 đồng.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 5% trên số tiền phải trả cho nguyên đơn là 11.128.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 463, khoản 5 Điều 466, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự; căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

- Buộc bà Đ trả cho ông H số tiền nợ gốc và lãi là 222.568.000 (hai trăm hai mươi hai triệu năm trăm sáu mươi tám ngàn) đồng; Thi hành ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành, nếu bị đơn chậm trả tiền thì bị đơn còn phải trả cho nguyên đơn khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả.

[2] Về án phí Tòa án:

Bà Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 11.128.000 (mười một triệu một trăm hai mươi tám ngàn) đồng.

[3] Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 189/2022/DS-ST

Số hiệu:189/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về