Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 183/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 183/2024/DS-PT NGÀY 23/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 404/2023/TLPT-DS ngày 23 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 232/2023/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 09/2024/QĐ-PT ngày 04 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lâm Hồng A, sinh năm: 1956; Nơi cư trú: số B đường L, khóm A, phường D, thành phố C, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hồ Vũ P, sinh năm 1980; nơi cư trú: Nhà không số, đường N, khóm F, phường I, thành phố C (có mặt).

- Bị đơn: Bà Phạm Thị N, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Ấp H, xã A, thành phố C, tỉnh Cà Mau (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Lê Thanh T, là Luật sư của Văn phòng luật sư Lê Thanh T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh C (có mặt).

Người kháng cáo: Bà Phạm Thị N - Là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 22 tháng 01 năm 2020, bà Lâm Hồng A cho bà Phạm Thị N vay số tiền 200.000.000 đồng, với mức lãi suất thỏa thuận là 2%/tháng, thời hạn vay là 24 tháng, trả lãi vào ngày 22 hàng tháng, việc vay có biên nhận do bà N viết và ký tên, còn việc thỏa thuận mức lãi suất và thời hạn vay không có văn bản thỏa thuận, chỉ thỏa thuận bằng lời nói, bà A đã giao đủ số tiền 200.000.000 đồng cho bà N nhận. Đến hạn thanh toán tiền lãi nhưng bà N không thanh toán và hứa hẹn nhiều lần nhưng cũng không thanh toán. Đến hạn thanh toán tiền nợ gốc thì bà N xin gia hạn thêm 06 tháng nữa là đến ngày 22/07/2022 bà N sẽ thanh toán hết nợ gốc và nợ lãi cho bà A, nhưng đến nay bà N vẫn không thanh toán. Bà A yêu cầu bà N thanh toán cho bà A số tiền nợ gốc là 200.000.000 đồng và tiền nợ lãi tính từ ngày 22/01/2020 đến ngày 13/9/2023 là 03 năm 08 tháng 21 ngày, áp dụng mức lãi suất 1,65%/tháng với số tiền lãi làm tròn là 120.120.000 đồng. Tổng số tiền bà A yêu cầu bà N thanh toán là 320.120.000 đồng. Nguyên đơn xác định chỉ khởi kiện bà N, vì là nợ riêng của bà N, không liên quan đến người nào khác. Nguyên đơn không đồng ý với ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng bà N không nợ bà A khoản tiền trên và hết thời hiệu khởi kiện, đề nghị đình chỉ giải quyết vụ án. Nguyên đơn xác định chỉ mới khởi kiện bị đơn tại vụ án này đối với biên nhận này, ngoài ra không còn khởi kiện bị đơn vụ án nào khác.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Bị đơn bà N không đồng ý với yêu cầu nguyên đơn, vì bà N xác định bà không có vay khoản tiền 200.000.000 đồng nêu trên của bà A, xác định biên nhận không phải do bà N viết và ký tên, tuy nhiên bị đơn không yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết trong biên nhận ngày 22/01/2020 do nguyên đơn cung cấp, vì nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của mình. Mặt khác, theo biên nhận thể hiện thời điểm vay tiền là ngày 22/01/2020, như vậy tính đến ngày khởi kiện 27/02/2023 là hơn 03 năm, là đã hết thời hiện khởi kiện. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 429 của Bộ luật dân sự đình chỉ giải quyết vụ án.

Tại Bản án dân sự sơ thm số: 232/2023/DSST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau tóm tắt:

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Hồng A, về việc yêu cầu bà Phạm Thị N thanh toán nợ.

Buộc Phạm Thị N có nghĩa vụ thanh toán cho bà Lâm Hồng A tổng số tiền 245.610.000 đồng, trong đó nợ gốc 200.000.000 đồng và nợ lãi 45.610.000 đồng.

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Hồng A, về việc yêu cầu bà Phạm Thị N thanh toán nợ lãi số tiền chênh lệch 74.510.000 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, trường hợp thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 29/9/2023 bà Phạm Thị N kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Hồng A đòi trả số tiền vốn và lãi là 245.610.000 đồng và đình chỉ vụ án.

Tại phiên tòa phúc thm:

Bà N giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, nhưng bà xác định chữ ký trong biên nhận nợ đúng là chữ ký của bà.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà N yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét về thời hiệu khởi kiện, yêu cầu chấp nhận kháng cáo của bà N.

Ông P đại diện ủy quyền của bà A yêu cầu Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biu:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tiến hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự; Các đương sự chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm số 223/2023/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau theo hướng chấp nhận yêu cầu trả vốn, không chấp nhận yêu cầu trả lãi do hết thời hiệu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét đơn kháng cáo của bị đơn nộp trong thời hạn quy định của pháp luật, về tố tụng và thẩm quyền giải quyết đã được cấp sơ thẩm xác định và thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị N, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại phiên tòa phúc thẩm bà N thừa nhận chữ ký trong biên nhận nợ đúng là chữ ký của bà nhưng bà N trình bày nội dung giấy nợ mượn dì T1 (là bà A) 200.000.000 đồng, do bà ký và nội dung giấy mượn nợ Lê Yến N1 (con dâu của bà A) 200.000.000 đồng, do bà ký chỉ là 1 khoản nợ 200.000.000 đồng, chứ không phải nợ bà N1 riêng, nợ bà A riêng.

Bà N xác định biên nhận nợ ngày 22/01/2020 do con bà tên Lâm Đăng K ghi, là ghi ngày dương lịch. Còn biên nhận nợ do bà Lê Yến N1 ghi để bà ký, ghi ngày 28/02/2019, là ghi ngày âm lịch, nếu quy đổi ra thì cùng 1 ngày. Cả hai biên nhận đều ghi chung 1 tờ giấy.

Như vậy, từ việc bà N thừa nhận có ký biên nhận nợ và bà N không có chứng cứ chứng minh đã trả nợ, cho thấy bản án sơ thẩm số 223/2023/DS-ST ngày 14/9/2023 buộc bà N thanh toán cho bà A nợ gốc 200.000.000 đồng là có căn cứ.

Về tiền lãi: Nguyên đơn xác định cho vay với mức lãi suất thỏa thuận là 2%/tháng, thời hạn vay là 24 tháng, trả lãi vào ngày 22 hàng tháng. Đến hạn 24 tháng thì bà N xin gia hạn thêm đến ngày 22/7/2022 nhưng phía bà N không thừa nhận thời hạn vay và gia hạn như phía nguyên đơn trình bày. Nguyên đơn không có chứng cứ gì chứng minh cho lời trình bày của mình.

Ngày ký biên nhận vay là 22/01/2020, theo nguyên đơn trình bày thỏa thuận trả lãi ngày 22 hàng tháng, như vậy ngày 22/02/2020 phải trả lãi lần đầu nhưng bị đơn không trả, đây là ngày mà bà A phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của bà bị xâm phạm, cũng là ngày để tính thời hiệu khởi kiện.

Điều 429 Bộ luật dân sự quy định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Khoản 2 Điều 190 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “Ngày khởi kiện là ngày đương sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án”. Theo giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện thể hiện đơn khởi kiện nộp trực tiếp cho tòa án vào ngày 27/02/2023 (bút lục 10).

Từ ngày 22/02/2020 đến ngày bà A khởi kiện (ngày 27/02/2023), là hơn 03 năm. Bị đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi cấp sơ thẩm ra bản án và thời hiệu khởi kiện về tiền lãi đã hết. Do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về tiền lãi, đình chỉ giải quyết về yêu cầu lãi.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định nội dung tranh chấp là đòi tài sản. Khoản 2 Điều 155 Bộ luật Dân sự quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, do đó khoản nợ gốc không áp dụng thời hiệu khởi kiện.

[3] Từ những tình tiết, quy định pháp luật nêu trên, Hội đồng xét xử sửa một phần bản án sơ thẩm số 223/2023/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, chấp nhận 1 phần kháng cáo của bị đơn, buộc bị đơn trả vốn như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[4] Án phí:

Án phí dân sự sơ thẩm bà Phạm Thị N phải chịu 10.000.000 đồng. Bà Lâm Hồng A được miễn do là người cao tuổi.

Án phí dân sự phúc thẩm bà Phạm Thị N không phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308; điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 223/2023/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Hồng A, về việc yêu cầu bà Phạm Thị N thanh toán nợ.

Buộc Phạm Thị N có nghĩa vụ thanh toán cho bà Lâm Hồng A số tiền 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng).

Kể từ ngày bà Lâm Hồng A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Phạm Thị N không thanh toán xong khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Hồng A, về việc yêu cầu bà Phạm Thị N thanh toán lãi số tiền 120.120.000đ (một trăm hai mươi triệu một trăm hai mươi ngàn đồng).

2. Án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Lâm Hồng A đã được miễn theo quy định; Bà Phạm Thị N phải nộp 10.000.000đ (mười triệu đồng).

- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị N không phải chịu, Ngày 29/9/2023 bà N đã tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), theo biên lai số 0008320, của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, được nhận lại.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 183/2024/DS-PT

Số hiệu:183/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:23/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về