Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 18/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 18/2024/DS-ST NGÀY 16/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 579/2023/TLST–DS ngày 07 tháng 12 năm 2023 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2024/QĐXXST–DS ngày 18/01/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2024/QĐST-DS ngày 26/01/2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phan Văn D, sinh năm 1984. Địa chỉ: 56/5, ấp T, thị trấn T, huyện P, tỉnh B. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1984. Địa chỉ: 9/5, ấp T, thị trấn T, huyện P, tỉnh B. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1984. Địa chỉ: 9/5, ấp T, thị trấn T, huyện P, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn Phan Văn D trình bày:

Anh và anh Trần Văn T là bạn, cư ngụ chung ấp. Do anh T và chị C gặp khó khăn trong việc mua bán nên anh T có hỏi mượn anh số tiền 40.000.000 đồng, có lập giấy tay ngày 16/7/2023, anh T hứa 2 tháng sẽ trả lại cho anh số tiền trên. Tuy nhiên quá thời gian hẹn, anh T không thực hiện như cam kết nên anh có trực tiếp đến nhà để yêu cầu anh T trả tiền nhưng không gặp anh T, chị C cũng đồng ý trả.

Nay anh làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét buộc anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị C có nghĩa vụ liên đới trả cho anh số tiền 40.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

Theo nội dung bản tự khai và trong quá trình tố tụng tại Tòa án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị C trình bày:

Chị là vợ anh Trần Văn T. Vào ngày 16/7/2023 chồng chị là anh Trần Văn T có vay của anh Phan Văn D số tiền 40.000.000 đồng: mục đích để đầu tư vào dịch vụ cho thuê karaoke nhằm phát triển kinh tế chung trong gia đình. Thời hạn vay là 02 tháng: khi vay thì anh T có ký tên vào giấy tay do anh D cung cấp; lãi suất hai bên thoả thuận mỗi tháng anh T trả cho anh D số tiền lãi là 4.000.000 đồng; sau khi vay anh T có trả lãi cho anh D nhưng chị không biết cụ thể số tiền là bao nhiêu. Do làm ăn thua lỗ nên chị và anh T mất khả năng T toán. Do hiện nay hoàn cảnh kinh tế của chị và anh T quá khó khăn nên qua yêu cầu khởi kiện của anh Phan Văn D chị đồng ý liên đới với anh Trần Văn T để trả cho anh Phan Văn D số tiền 40.000.000 đồng nhưng có yêu cầu trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng. Đối với số tiền lãi anh T đã đóng cho anh D chị không yêu cầu giải quyết lại. Khi nhận các Thông báo của Toà án chị có thông báo lại cho anh T biết nhưng do anh T bận đi làm nên không thể về tham gia hoà giải được.

Bị đơn Trần Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ, trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh T vắng mặt, không nêu ý kiến phản đối và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về thẩm quyền: Anh Trần Văn T, sinh năm 1984. Địa chỉ: 9/5, ấp T, thị trấn T, huyện T, tỉnh B do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú theo quy định tại khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Bị đơn Trần Văn T đã được toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

[4] Về nội dung vụ án: Anh Phan Văn D khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị C có nghĩa vụ liên đới trả cho anh D số tiền 40.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

[5] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xét thấy: hợp đồng vay tài sản giữa anh Phan Văn D và anh Trần Văn T được xác lập trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, không bên nào bị lừa dối hoặc bị ép buộc và không vi phạm quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên được xem là hợp đồng hợp pháp. Do vậy làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên nên các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết. Bị đơn Trần Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án gồm thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt, không nêu ý kiến phản đối và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị C thừa nhận hiện nay chị C và anh T còn nợ anh D số tiền 40.000.000 đồng; mục đích vay tiền để đầu tư vào dịch vụ cho thuê karaoke nhằm phát triển kinh tế chung trong gia đình nên chị C đồng ý liên đới với anh Trần Văn T để trả cho anh Phan Văn D số tiền 40.000.000 đồng nhưng có yêu cầu trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng. Đối với số tiền lãi anh T đã đóng cho anh D chị C không yêu cầu giải quyết lại. Do đó có cơ sở xác định hiện nay anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị C còn nợ anh Phan Văn D số tiền 40.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị C đã vi phạm hợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận làm phát sinh tranh chấp. Lẽ đó việc anh Phan Văn D yêu cầu anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị C có nghĩa vụ liên đới trả cho anh Phan Văn D số tiền nợ gốc 40.000.000 đồng là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Do anh Phan Văn D không yêu cầu tính lãi nên không xem xét giải quyết.

[7] Anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị C có nghĩa vụ liên đới chịu án phí theo quy định của pháp luật được tính như sau: 5%x 40.000.000 đồng= 2.000.000 đồng.

[8] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, điểm b, khoản 1 Điều 35, 39, 147, 266 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Văn D: Buộc anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị C có nghĩa vụ liên đới trả cho anh Phan Văn D số tiền 40.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

Anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị C có nghĩa vụ liên đới chịu án phí theo quy định của pháp luật được tính như sau: 5%x 40.000.000 đồng = 2.000.000 đồng.

Anh Phan Văn D được Chi Cục thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.000.000 đồng theo biên lai thu số 0000431 ngày 06 tháng 12 năm 2023.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 18/2024/DS-ST

Số hiệu:18/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:16/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về