TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án 179/2022/DS-ST ngày 15/07/2022 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ngày 15 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 167/2021/TLST-DS ngày 05 tháng 11 năm 2021 về ‘‘Tranh chấp hợp đồng vay tài sản’’ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 183/2020/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 136/2022/QĐST-DS ngày 24 tháng 6 năm 2022 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 220/2022/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S Hội sở: 266-268 đường K, phường V, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D – sinh năm 1973; Chức danh: Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc M – sinh năm 1991 (Giấy ủy quyền số: 439/2021/UQ-TTT ngày 24/5/2021).
Địa chỉ: Lầu 8, Số 266-268 đường K, phường V, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Bà Phạm Thị Huyền T – sinh năm 1985 Địa chỉ: 100/28/7 đường P, Phường M, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bà Phạm Thị Huyền T vắng mặt lần thứ 2.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Chí Th – sinh năm 1983 Địa chỉ: 100/28/7 đường P, Phường M, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Lê Chí Th vắng mặt lần thứ 2.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện ngày 24/5/2021 của Nguyên đơn - Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (sau đây gọi là Ngân hàng) cùng trình bày của ông Nguyễn Ngọc Minh là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thì: Ngày 24/02/2014, bà Phạm Thị Huyền T (sau đây gọi là Bị đơn) có ký với Ngân hàng Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Căn cứ thu nhập của Bị đơn, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng hạn mức sử dụng là 52.000.000đ, mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp Thẻ tín dụng Bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 750.058.048đ và thanh toán cho Ngân hàng 732.116.401đ. Do Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 06/02/2021 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Bị đơn phải trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 09/12/2021 là 83.409.190đ (Tám mươi triệu bốn trăm linh chín ngàn một trăm chín mươi đồng), trong đó: Nợ gốc: 59.616.383đ; Nợ lãi: 23.792.807đ và buộc Bị đơn có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 10/12/2021 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập cho Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để tự khai; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự được.
Tại phiên tòa: Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt.
Ông Nguyễn Ngọc M là Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng trình bày: Đến ngày 15/7/2022 Bị đơn còn nợ Ngân hàng 100.304.408đ, trong đó: Nợ gốc: 59.616.383đ; Nợ lãi: 40.688.025đ. Nay Ngân hàng yêu cầu Bị đơn phải trả ngay số nợ trên và tiếp tục thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 16/7/2022 cho đến khi thanh toán dứt nợ theo lãi suất quy định tại Hợp đồng hai bên đã ký.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phát biểu:
- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã làm đúng quy định của pháp luật, xét xử đúng hạn luật định. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật, người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa. Đề nghị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng khởi kiện ‘‘tranh chấp hợp đồng vay tài sản’’ với Bị đơn do Bị đơn cư trú tại 33/2 Lý Thường Kiệt, Phường 8, quận Tân Bình. Quá trình giải quyết vụ án, căn cứ kết quả xác minh của Công an Phường 8, Phường 9, quận Tân Bình xác định địa chỉ cư trú cuối cùng của Bị đơn là 100/28/7 đường P, Phường M, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh nên đây là địa chỉ Tòa án thực hiện tống đạt, niêm yết cho Bị đơn theo quy định.
Căn cứ Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì thẩm quyền giải quyết yêu cầu của Ngân hàng thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về việc tham gia phiên tòa của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình: Trong vụ án này, Tòa án có thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[3] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng – ông Nguyễn Ngọc M có mặt. Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[4] Xét yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu Bị đơn phải trả 100.304.408đ, trong đó: Nợ gốc: 59.616.383đ; Nợ lãi: 40.688.025đ. Hội đồng xét xử xét thấy:
Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng của Bị đơn ngày 24/02/2014.
Căn cứ phê duyệt hạn mức tín dụng ngày 24/02/2014 của Ngân hàng thì Ngân hàng đồng ý cấp thẻ tín dụng cho Bị đơn với hạn mức 52.000.000đ.
Từ các căn cứ trên thể hiện giữa Bị đơn và Ngân hàng đã giao kết hợp đồng vay tài sản.
Theo bảng chiết tính của Ngân hàng thì tính đến ngày 15/7/2022 số nợ còn lại của Bị đơn đối với Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 24/02/2014 là 100.304.408đ, trong đó: Nợ gốc: 59.616.383đ; Nợ lãi: 40.688.025đ. Quá trình giải quyết vụ án Bị đơn không có ý kiến gửi cho Tòa án và không đến Tòa án để giải quyết việc kiện của Ngân hàng đối với Bị đơn nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của ông M là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng, buộc Bị đơn phải thanh toán cho Ngân hàng nợ gốc, lãi tính đến ngày 15/7/2022 là 100.304.408đ.
[5] Xét yêu cầu của Ngân hàng yêu cầu Bị đơn phải trả tiền lãi phát sinh từ ngày 16/7/2022 cho đến khi trả hết nợ, Hội đồng xét xử xét thấy: Yêu cầu này của Ngân hàng là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
[6] Về thời hạn thanh toán: Tại phiên tòa Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng yêu cầu Bị đơn phải thanh toán ngay số nợ trên. Hội đồng xét xử xét thấy: Do Bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán đã làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng nên việc Ngân hàng yêu cầu Bị đơn phải thanh toán ngay khoản nợ trên là không trái quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Bị đơn phải thanh toán nợ cho Ngân hàng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[7] Về án phí: Căn cứ Khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, trả lại Nguyên đơn 1.573.725đ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp.
Căn cứ Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, Bị đơn phải chịu 5.015.220đ án phí Dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 21; Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Khoản 1 Điều 273; Khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Điều 91; Điều 95 và Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
- Căn cứ vào Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
- Căn cứ vào Khoản 1, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn – Ngân hàng Thương mại Cổ phần S.
a/ Buộc Phạm Thị Huyền T có trách nhiệm trả ngay cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S 100.304.408đ (Một trăm triệu ba trăm linh bốn ngàn bốn trăm linh tám đồng), trong đó: Nợ gốc: 59.616.383đ, Nợ lãi: 40.688.025đ theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 24/02/2014.
b/ Buộc bà Phạm Thị Huyền T có trách nhiệm tiếp tục trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S tiền lãi phát sinh từ ngày 16/7/2022 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 24/02/2014.
2/ Về án phí: Bà Phạm Thị Huyền T phải chịu 5.015.220đ (Năm triệu không trăm mười lăm ngàn hai trăm hai mươi đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.
Hoàn lại Ngân hàng Thương mại Cổ phần S 1.573.725đ (Một triệu năm trăm bảy mươi ba ngàn bảy trăm hai mươi lăm đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0030444 ngày 29/10/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
4/ Về quyền kháng cáo: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Phạm Thị Huyền T, ông Lê Chí Th được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
5/ Về quyền kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 179/2022/DS-ST
Số hiệu: | 179/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về