Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 174/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 174/2023/DS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện HH xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 118/2023/TLST-DS ngày 10 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 207/2023/QĐXXST - DS ngày 17 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 122/QĐST- DS, ngày 04 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị N, sinh năm 1975; địa chỉ: Xóm 4, xã HH1, huyện HH, tỉnh Nam Định, “vắng mặt có lý do”;

- Bị đơn: Bà Lã Thị Ng, sinh năm 1975; địa chỉ: Xóm 5, xã HH1, huyện HH, tỉnh Nam Định, “vắng mặt không có lý do”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02 tháng 10 năm 2023, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Hoàng Thị N trình bày:

Do là bạn bè và ở cùng xã với bà Lã Thị Ng nên khi bà Ng đến nhà bà Hoàng Thị N hỏi vay tiền để làm ăn, bà N đã tin tưởng và có 03 lần cho bà Ng vay tổng số tiền 145.000.000đồng, cụ thể như sau: Ngày 20/3/2017 vay 70.000.000đồng, ngày 28/3/2017 vay 60.000.000đồng, ngày 03/6/2017 vay 15.000.000đồng. Các lần vay tiền bà Lã Thị Ng đều tự ghi vào sổ ghi nợ của bà N do bà N giữ và trực tiếp nhận tiền mặt từ bà N. Hai bên có thỏa thuận miệng khi nào bà N cần thì báo trước một thời gian ngắn bà Ng sẽ trả, lãi suất theo thỏa thuận. Tuy nhiên bà Ng chưa trả khoản tiền lãi nào cho bà N mà hứa hẹn khi nào bà N cần thì bà Ng sẽ trả cả tiền gốc và tiền lãi, bà N đồng ý. Nhưng khi bà N cần tiền, nhiều lần yêu cầu bà Ng trả nợ thì bà Ng đều lẩn tránh cố tình không trả. Do vay nợ của nhiều người nên tháng 02 năm 2022 bà Ng đã bỏ trốn khỏi địa phương, đến nay chưa về, bà N đã tìm kiếm và tìm cách liên lạc với bà Ng nhưng đều không có kết quả. Hiện nay bà N không biết bà Ng đang ở đâu, làm gì. Nay bà N yêu cầu Tòa án buộc bà Ng phải trả nợ cho bà N số tiền là 145.000.000đồng, không yêu cầu trả lãi.

Bị đơn bà Lã Thị Ng: Tòa án nhân dân huyện HH đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác của Tòa án theo quy định pháp luật và trong quá trình giải quyết vụ án, do bà Lã Thị Ng không có mặt ở địa phương nên Tòa án nhân dân huyện HH đã đăng thông tin tìm kiếm bà Lã Thị Ng trên các phương tiện thông tin đại chúng gồm: đăng thông tin tìm kiếm trên báo Công lý 3 số liên tiếp 85, 86, 87 ra các ngày 25, 27 tháng 10 năm 2023 và ngày 01 tháng 11 năm 2023; trên đài VOV AMS của Trung tâm quảng cáo và dịch vụ truyền thông phát VOV2 vào hồi 17 giờ 30 phút các ngày 27, 28 và 29 tháng 10 năm 2023 và trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án về việc bà Hoàng Thị N có đơn khởi kiện đòi nợ tiền vay đối với bà Lã Thị Ng nhưng đến nay bà Ng không đến Tòa án làm việc, vắng mặt không có lý do cũng không có văn bản thể hiện ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà N.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện HH tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tại phiên tòa đều đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự cơ bản đã chấp hành đúng quy định pháp luật. Bị đơn bà Lã Thị Ng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên đủ căn cứ xét xử vắng mặt.

Về nội dung: Căn cứ vào các Điều 357, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự; Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị N đối với bà Lã Thị Ng. Buộc bà Lã Thị Ng phải có nghĩa vụ trả nợ bà Hoàng Thị N số tiền 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng). Bà Lã Thị Ng phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Hoàng Thị N vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn bà Lã Thị Ng vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hợp đồng vay tiền: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp và lời khai của các đương sự có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy:

[2.1] Theo lời trình bày của bà Hoàng Thị N, năm 2017 bà N có 03 lần cho bà Lã Thị Ng vay tổng số tiền 145.000.000đồng, mục đích bà Ng vay để làm ăn, cụ thể: Ngày 20/3/2017 vay 70.000.000đồng, ngày 28/3/2017 vay 60.000.000đồng, ngày 03/6/2017 vay 15.000.000đồng. Các lần vay tiền bà Ng đều tự ghi ngày tháng năm, số tiền vay, ký tên vào quyển sổ của bà N và bà N giữ sổ. Các khoản vay trên đều không có thời hạn, lãi suất theo thỏa thuận. Mặc dù bà N đã nhiều lần yêu cầu bà Ng trả nợ vay nhưng đến nay bà Ng chưa trả bà N khoản tiền gốc và lãi nào. Nay bà N yêu cầu bà Ng phải trả số tiền gốc đã vay 145.000.000đồng, không yêu cầu trả lãi.

[2.2] Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện HH đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng liên quan đến yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị N đối với bà Lã Thị Ng, đăng thông tin tìm kiếm bà Lã Thị Ng trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng bà Ng vẫn vắng mặt, không đến Tòa án làm việc cũng không có văn bản thể hiện ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà N. Kết quả xác minh tại địa phương, bà Ng đã bỏ đi khỏi địa phương mấy năm nay không về, gia đình bà Ng không có ai ở nhà, nhà thường xuyên khóa cửa, địa phương hiện nay không biết bà Ng đang làm ăn sinh sống ở đâu, hiện nay bà Ng vẫn còn đăng ký cư trú tại xóm 4, xã HH1, huyện HH.

[4] Tại giấy vay nợ do nguyên đơn cung cấp có ghi các nội dung: “ngày 20/3/2017, tôi tên là Lã Thị Ng có vay số tiền là 70.000.000đ; ngày 28/3/2017 tôi Lã Thị Ng có vay thêm số tiền 60.000.000đồng, ngày 03/6 âm tôi là Lã Thị Ng xóm 4 HH1 vay thêm số tiền là 15.000.000đồng” sau mỗi ngày, số tiền vay đều có chữ viết tên Lã Thị Ng phía dưới. Mặc dù các nội dung không thể hiện tên địa chỉ của người cho vay tiền nhưng nội dung được viết trong quyển sổ của nguyên đơn do nguyên đơn giữ nên có căn cứ khẳng định nguyên đơn là người cho vay tiền. Xét lời khai của nguyên đơn phù hợp với tài liệu chứng cứ là giấy vay nợ trên nên đủ cơ sở khẳng định việc bà Lã Thị Ng có vay và còn nợ bà Hoàng Thị N số tiền 145.000.000đồng là đúng.

[3] Bị đơn mặc dù đã được thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án bằng các hình thức tống đạt niêm yết công khai văn bản tố tụng tại địa chỉ cư trú, thông báo tìm kiếm trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án.

[4] Căn cứ vào Điều 463 của Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử xét thấy việc vay mượn tiền giữa bà N và bà Ng là rõ ràng, cụ thể, đã thể hiện ý chí, sự thỏa thuận thống nhất của bên vay và bên cho vay do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N về việc yêu cầu bà Ng phải trả số tiền 145.000.000đồng. Do bà N không yêu cầu trả lãi nên không buộc bà Ng phải trả tiền lãi cho bà N.

[5] Về trách nhiệm trả nợ: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử thấy: việc bà Lã Thị Ng có vay số tiền 145.000.000đồng của bà Hoàng Thị N là sự thật và hiện nay bà Ng chưa trả khoản tiền này cho bà N. Như vậy, bà Lã Thị Ng phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà Hoàng Thị N số tiền là 145.000.000đồng (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) theo quy định tại các Điều 357, 466, 468 của Bộ luật Dân sự.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn là bà Lã Thị Ng phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào các Điều 357, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự.

1.1. Xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị N đối với bà Lã Thị Ng về hợp đồng vay tài sản.

1.2. Buộc bà Lã Thị Ng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Hoàng Thị N số tiền 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc:

Bà Lã Thị Ng phải nộp số tiền 7.250.000đ (bảy triệu hai trăm lăm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Hoàng Thị N được nhận lại số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0002788 ngày 09/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HH.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Hoàng Thị N, bị đơn bà Lã Thị Ng có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 174/2023/DS-ST

Số hiệu:174/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về