TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 16/2024/DS-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 307/2023/TLST-DS, ngày 17 tháng 8 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-DS, ngày 02 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L - Sinh năm: 1944 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Trần Thị Ú - sinh năm: 1982 (có mặt) Địa chỉ: Khóm B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Bà Võ Kim T - Sinh năm: 1959 (có mặt).
Địa chỉ: Khóm C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ T1 - Sinh năm: 1958 (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 24 tháng 7 năm 2023 và các lời khai tại Tòa án Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Trần Thị Ú trình bày:
Vào ngày 27/02/2013, vợ chồng bà Võ Kim T và ông Đỗ T1 có hỏi vay của bà Nguyễn Thị L số tiền 200.000.000 đồng. Lãi suất thỏa thuận 2,5%/tháng. Khi hỏi vay bà T có làm biên nhận giao cho bà L giữ. Sau khi vay vào khoảng năm 2017 bà T có trả được vốn 50.000.000 đồng và lãi 50.100.000 đồng thì không trả nữa, bà L đã đòi nhiều lần nhưng bà T, ông T1 không trả lại số tiền còn thiếu.
Nay bà L khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Võ Kim T, ông Đỗ T t lại số tiền vốn còn thiếu là 150.000.000 đồng. Bà L rút lại yêu cầu tính lãi đối với số tiền 566.230.868 đồng.
Bà Võ Kim T trình bày: Vào ngày 27/02/2013 bà có hỏi vay của bà Nguyễn Thị L số tiền 200.000.000 đồng để làm vốn làm ăn, lãi thỏa thuận 2,5%/tháng. Khi vay bà viết biên nhận giao cho bà L giữ. Chữ viết và chữ ký trong biên nhận ngày 27/02/2013 là do bà viết và ký tên vào. Quá trình vay bà đã trả được 50.000.000 đồng tiền vốn cho bà L và có trả lãi cho bà L nhưng không rõ đã trả được bao nhiêu tiền lãi. Đến giữa năm 2022 giữa bà và bà L chốt lại số tiền bà còn nợ là 100.000.000 đồng, chốt bằng miệng không làm biên nhận hay giấy tờ gì. Từ sau khi chốt nợ bà vẫn đóng tiền cho bà L hứa là mỗi tháng đóng 2.000.000 đồng nhưng có tháng bà chỉ đóng được 1.000.000 đồng. Tổng số tiền mà bà đóng đến tháng 5 năm 2023 âm lịch là khoảng 20.000.000 đồng thì bà L kiện bà ra Tòa án nên bà ngưng không đóng nữa. Các lần đóng tiền bà không có làm giấy tờ hay biên nhận gì cho bà L giữ. Bà cũng không có bất kỳ giấy tờ nào chứng minh là bà chốt nợ với bà L. Nhưng nay bà xác định số tiền bà còn nợ lại bà L 80.000.000 đồng và chỉ đồng ý trả cho bà L số tiền 80.000.000 đồng. Việc vay mượn tiền của bà thì chồng bà là ông Đỗ T b việc này và hiện nay vợ chồng bà vẫn còn chung sống. Tòa án triệu tập ông T1 nhưng do ông T1 bị bệnh nên không tham gia phiên tòa xét xử được.
Ông Đỗ T1 đã được tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T1 không tham gia và cũng không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Trần Thị Ú trình bày: Bà Nguyễn Thị L yêu cầu bà Võ Kim T và ông Đỗ T1 liên đới trả lại số tiền vốn còn thiếu 150.000.000 đồng, rút lại yêu cầu tính lãi với số tiền 566.230.868 đồng.
Bà Võ Kim T trình bày: Bà xác định số nợ bà còn thiếu bà L chỉ còn lại 80.000.000 đồng. Bà chỉ đồng ý trả cho bà L số tiền 80.000.000 đồng.
Ông Đỗ T1 vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Đỗ T1 đã được triệu tập xét xử lần thứ hai, nhưng ông T1 vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt đối với ông Đỗ T.
[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Bà Nguyễn Thị L nộp đơn khởi kiện bà Võ Kim T cư trú tại Khóm C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau yêu cầu trả lại số tiền vay còn thiếu. Như vậy, quan hệ tranh chấp được xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện cái Nước, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 463 của Bộ luật dân sự.
[3] Về nội dung vụ án:
[3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L yêu cầu bà Võ Kim T và ông Đỗ T t cho bà số tiền vốn vay là 150.000.000 đồng.
Bà Võ Kim T trình bày chỉ còn thiếu lại 80.000.000 đồng và đồng ý trả lại số tiền 80.000.000 đồng.
Căn cứ vào tất cả tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Việc bà Võ Kim T có hỏi vay tiền của bà Nguyễn Thị L là thực tế có xảy ra, biên nhận ngày 27/02/2013 bà Võ Kim T thừa nhận do bà viết có ký và ghi rõ họ tên của bà vào biên nhận, mục đích vay để buôn bán lãi thỏa thuận 2,5%/ tháng. Cả nguyên đơn và bị đơn thống nhất năm 2017 bà T có trả được 50.000.000 đồng tiền vốn cho bà L đây là sự thật không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại tòa nguyên đơn trình bày đối với khoản tiền lãi từ khi vay là vào năm 2013 đến lúc đi khởi kiện bị đơn trả được tiền lãi 50.100.000 đồng. Riêng bị đơn thừa nhận đã trả được vốn 50.000.000 đồng, tiền lãi thì không nhớ rõ. Nhưng bà đã chốt nợ bằng miệng với bà L vào giữa năm 2022 số nợ còn lại giữa bà và bà L là 100.000.000 đồng và cam kết hàng tháng góp cho bà L 2.000.000 đồng và bà đã trả đến tháng 5/2023 (âm lịch) được 20.000.000 đồng, nên bà chỉ còn nợ 80.000.000 đồng và chỉ đồng ý trả lại 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng). Tất cả những lời trình bày của bà T điều không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh cho việc bà T đã trả tiền cho bà L. Không có biên nhận hay bất kỳ ai chứng kiến việc bà đã trả tiền cho bà L. Do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của bị đơn Võ Kim T. Nguyên đơn và bị đơn thống nhất trả được 50.000.000 đồng tiền vốn. Như vậy, có cơ sở xác định số tiền bà T đã trả được là 50.000.000 đồng, còn nợ bà L số tiền 150.000.000 đồng và đến nay chưa trả được cho bà L là bà T đã vi phạm nghĩa vụ tại Điều 466 Bộ luật dân sự. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với việc bà L yêu cầu ông Đỗ T c có trách nhiệm liên đới trả số tiền vốn vay cho bà L. Mặc dù ông T1 không có ký tên vào biên nhận nhưng bà T trình bày việc vay mượn tiền của bà L chồng bà là ông Đỗ T b và hiện nay vợ chồng bà vẫn còn chung sống với nhau do đó có cơ sở buộc ông T1 phải có trách nhiệm liên đới cùng bà T trả số tiền còn thiếu cho bà L.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L. Buộc bà Võ Kim T và ông Đỗ T1 có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền vốn vay còn nợ là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).
Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm thanh toán số tiền vốn vay nêu trên, thì còn phải chịu tiền lãi theo quy định pháp luật.
[3.2] Về yêu cầu tính lãi chậm thanh toán: Tại đơn khởi kiện bà L yêu cầu bà T và ông T1 trả số tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 27/02/2013 đến ngày 07/5/2023 là 566.230.868 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn tự nguyện rút lại yêu cầu đối với số tiền 566.230.868 đồng. Xét thấy việc rút lại yêu cầu của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử yêu cầu của bà Nguyễn Thị L đối với yêu cầu tính lãi đối với bà Võ Kim T và ông Đỗ T.
[3.3] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Áp dụng khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bà Võ Kim T và ông Đỗ T1 phải liên đới chịu tiền án phí với số tiền là 7.500.000 (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng), nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước.
Bà Nguyễn Thị L là người cao tuổi có đơn xin miễn án phí và do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L nên bà L không phải chịu án phí.
[4] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, 227, 235, 244, 266, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các điều 463; 466 và 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đối với bà Võ Kim T và ông Đỗ T.
Buộc bà Võ Kim T và ông Đỗ T1 có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bà L có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà T và ông T1 chậm thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đối với bà Vỗ Kim T và ông Đỗ T1 về việc yêu cầu trả lãi số tiền 566.230.868 đồng.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc bà Võ Kim T và ông Đỗ T1 phải liên đới chịu án phí với số tiền là 7.500.000 (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng), nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp Bản án (Quyết định) được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 16/2024/DS-ST
Số hiệu: | 16/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về