TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 16/2023/DS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nga Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 25/2023/TLST-DS ngày 26 tháng 7 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử, số 27/2023 /QĐXX-ST ngày 02 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Chị Trần Thị L - Sinh năm 1979.
Địa chỉ: Thôn 3, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; (có mặt).
2/ Bị đơn:
Chị Trần Thị B - Sinh năm 1984;
Anh Nguyễn Văn T - Sinh năm 1980
Đều cùng địa chỉ: Thôn 7, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/7/2023, bản tự khai, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: xuất phát từ mối quan hệ họ hàng, ngày 05/5/2023, chị B và anh T hỏi nhờ chị vay số tiền 3.750.000.000đ (Ba tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng), thời hạn vay hẹn 01 tháng trả lại số tiền vay. Đến hẹn nhưng chị B, anh T không có động thái trả nợ. Chị đã hỏi nhiều lần nhưng vợ chồng chị B, anh T không trả nợ, khất lần và không thực hiện. Để đảm bảo quyền lợi, chị yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị B, anh T trả số tiền gốc vay trên cho chị; về lãi suất chị không yêu cầu giải quyết.
Đối với bị đơn chị Trần Thị B và anh Nguyễn Văn T đều trình bày: xuất phát từ mối quan hệ anh em họ hàng, chị B (vợ anh) vay tiền chị L, số tiền như chị L đang yêu cầu. Khi ký giấy ngày 05/5/20223 anh mới biết và ký vào giấy vay. Về ngày trả nợ là không hẹn; còn ghi thời hạn trả: 01 tháng (là chữ của chị L); khi vay vợ chồng vay bằng tín chấp, không thế chấp tài sản gì để đảm bảo khoản vay. Hiện tại gia đình chị đang gặp khó khăn nên khất chị L cho vợ chồng thêm thời gian trả nợ để vợ chồng chị lấy được tiền nợ từ người khác thì sẽ thanh toán. Số tiền nợ gốc chị L yêu cầu là đúng; về lãi suất chị L không yêu cầu nên chị B, anh T cũng nhất trí.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các bên thống nhất về số tiền vay, không thống nhất được phương án trả nợ.
Ngày 06/9/2023, chị B, anh T đã trả cho chị L số tiền 170.000.000đ (trả bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản chị L là 85.000.000đ; trả trực tiếp 85.000.000đ), có giấy biên nhận, viết tay và có đầy đủ chữ ký các bên. Do đó, số tiền chị B, anh T còn nợ lại chị L là 3.580.000.000đ (Ba tỷ năm trăm tám mươi triệu đồng) Tại phiên tòa hôm nay, chị L vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu. Đối với bị đơn: chị B, anh T đồng ý số tiền gốc còn nợ; về lãi suất chị L không yêu cầu nên anh T, chị B không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn.
* Về nội dung vụ án:
[1] Xét yêu cầu của Nguyên đơn: Theo “Hợp đồng tiền vay”, viết tay đề ngày 05/5/2023,chị L cho chị B, anh T vay số tiền là 3.750.000.000đ; thời hạn vay là 01 tháng; về lãi suất chị L không yêu cầu. Quá trình giải quyết ngày 06/9/2023, chị B, anh T đã trả cho chị L số tiền 170.000.000đ (trả bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản chị L là 85.000.000đ; trả trực tiếp 85.000.000đ), có giấy biên nhận, viết tay và có đầy đủ chữ ký các bên. Do đó, số tiền chị B, anh T còn nợ lại chị L là 3.580.000.000đ (Ba tỷ năm trăm tám mươi triệu đồng).
[2] Xét số tiền bị đơn vay của nguyên đơn: Hai bên thực hiện việc vay số tiền như nguyên đơn yêu cầu là đúng. Tại giấy vay tiền bị đơn vay bằng tín chấp, không thế chấp tài sản gì đối với khoản vay trên. Do điều kiện gia đình gặp khó khăn bởi người khác cũng vay tiền của anh, chị nhưng chưa trả nên anh, chị không có khả năng trả lại được số tiền vay cho chị L như chị đang yêu cầu. Số tiền, anh T, chị B còn nợ chị L là 3.580.000.000đ (Ba tỷ năm trăm tám mươi triệu đồng). Anh T, chị B đồng ý trả nợ gốc cho chị L với điều kiện xin trả dần hàng tháng, mỗi tháng là 8.000.000đ; về lãi suất: chị L không yêu cầu tính lãi nên anh T, chị B thống nhất không có ý kiến gì.
[3] Xét việc vay tiền của các đương sự: Hai bên đương sự đều thống nhất số tiền gốc còn nợ, ngày ghi trên hợp đồng vay, chữ ký của bên vay, bên cho vay; không yêu cầu tính lãi suất. Tuy nhiên, anh T, chị B đề nghị trả mỗi tháng cho chị L là 8.000.000đ/tháng, nhưng chị L không đồng ý.
Xét việc vay tiền của các bên là hoàn toàn tự nguyên, khi vay hai bên có lập thành hợp đồng vay, đầy đủ chữ ký của các bên vay và bên cho vay. Số tiền gốc anh T, chị B còn nợ chị L là 3.580.000.000đ (Ba tỷ năm trăm tám mươi triệu đồng), là có cơ sở chấp nhận. Về lãi suất: chị L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử miễn xét.
định.
[4] Về án phí: Anh T, chị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; Điều 465; Điều 466; Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự năm 2015; điểm b khoản 1 Điều 24; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục án phí kèm theo.
Xử: 1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L, buộc anh Nguyễn Văn T và chị Trần Thị B thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chị L số tiền nợ gốc là 3.580.000.000đ (Ba tỷ năm trăm tám mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2/ Về án phí: Anh Nguyễn Văn T và chị Trần Thị B phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 103.600.000đ (Một trăm linh ba triệu sáu trăm nghìn đồng).
Trả lại cho chị Trần Thị L số tiền tạm ứng án phí đã nộp 53.500.000đ (Năm ba triệu năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2021/0016565, ngày 26/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nga Sơn.
3/ Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 16/2023/DS-ST
Số hiệu: | 16/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về