TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 15/2024/DS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 275/2023/TLST – DS ngày 18 tháng 10 năm 2023, về việc: “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” và “Tranh chấp bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-DS ngày 02/01/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2024/QĐST-DS ngày 18/01/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2024/QĐST-DS ngày 05/02/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lã Thị Vi H - Sinh năm 1972 Địa chỉ: 437 Trần Quang Diệu, khu phố 2, phường X, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Ông Nguyễn Hoàng N - Sinh năm 1963; Địa chỉ: 246 H, phường P, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 31/10/2023 Bị đơn: Ông Lý Văn H – Sinh năm 1964 Bà Nguyễn Thị L - Sinh năm 1965 Cùng địa chỉ: Thôn 3, xã H, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 05/9/2023, đơn sửa đổi, bổ sung nội dung khởi kiện ngày 01/10/2023 và tại bản trình bày ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lã Thị Vi H – do ông Nguyễn Hoàng N đại diện ủy quyền trình bày: Bà và vợ chồng ông H, bà L không có quen biết gì nhưng do vợ chồng ông H, bà L có mua đất đối diện nhà bà và bà cũng có đến nhà thấy vợ chồng ông H, bà L có cơ sở kinh doanh và cần tiền để trả nợ tiền hàng nên bà yên tâm cho vợ chồng H, bà L vay nhiều lần. Cụ thể:
Lần 1: Ngày 18/01/2023, vợ chồng ông H, bà L có vay số tiền 20.000.000đồng để đi chữa bệnh, kinh doanh khi vay có viết tờ giấy vay tiền nội dung “…Tôi tên Lý Văn H…vợ chồng tôi có mượn của chị Lã Thị Vi H…một số tiền 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng chẳn) thời gian vay là 01 năm (nếu bà H cần thì báo trước 01 tháng …ghi Hàm Liêm ngày 18/01/2023 vợ chồng ông H, bà L cùng ký tên.
Lần 2: Ngày 24/02/2023, vợ chồng ông H, bà L vay tiếp số tiền 40.000.000đồng để đáo hạn ngân hàng, chữa bệnh, khi vay có viết tờ giấy vay tiền nội dung “…Tôi tên Lý Văn H…vợ chồng tôi có mượn của chị Lã Thị Vi H…một số tiền 40.000.000đồng (Bốn mươi triệu đồng chẳn) thời gian vay là 03 tháng …ghi ngày 24/02/2023 vợ chồng ông H, bà L cùng ký tên.
Khi đến thời hạn trả nợ ông H, bà L không thanh toán khoản vay trên cho bà H, trốn tránh, bà đã nhiều lần liên hệ với vợ chồng ông H, bà L để đòi nợ, nhưng vợ chồng ông H, bà L cố tình dây dưa và lẫn tránh không trả số nợ trên. Bà H đã trực tiếp đến nhà nhiều lần nhưng chỉ gặp con của bà L, ông H, không ai biết vợ chồng bà L ở đâu. Đây là số tiền tích góp của bà H nhiều năm, bà rất khó khăn nên yêu cầu vợ chồng ông H, bà L phải thanh toán cả hai khoản nợ trên. Bà H yêu cầu ông Lý Văn H và bà Nguyễn Thị L phải trả số tiền gốc 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) và khoản lãi phát sinh từ tháng 01/2023 đến nay là 10 tháng, theo lãi suất quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định, số tiền lãi tạm tính là 10.000.000đồng. Ngoài ra, còn yêu cầu ông H, bà L trả các khoản sau: Bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh, uy tín và đi lại, thuê luật sư 50.000.000đồng. Cụ thể: Về uy tín, danh dự: 25.000.000đồng; Về sức khỏe: 7.000.000đồng; Về đi lại, thuê luật sư: 18.000.000đồng;Tổng cộng:
120.000.000 đồng (Một trăm hai chục triệu đồng).
Quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản làm việc ngày 29/11/2023, các biên bản về việc không tiến hành hòa giải được, tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng N rút một phần yêu cầu khởi kiện cụ thể không yêu cầu Tòa án giải quyết chi phí bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự, uy tín và đi lại, thuê luật sư 50.000.000đồng.
Về lãi suất không yêu cầu tính lãi 2%/tháng như đơn trình bày ghi ngày 28/02/2024 mà thay đổi mức lãi suất chỉ yêu cầu lãi suất của số tiền 40.000.000đồng từ ngày 25/5/2023 đến ngày 28/02/2024, là 09 tháng 03 ngày, mức lãi suất 0,83%/tháng với số tiền là 3.021.000 đồng. Đối với số tiền vay 20.000.000đồng, chưa đến hạn trả nợ nhưng đã nhiều lần bà H yêu cầu vợ chồng ông H, bà L trả số tiền này trước hạn nhưng ông H, bà L không trả nên không yêu cầu tính lãi suất của số tiền vay 20.000.000đồng này.
Bị đơn ông Lý Văn H và bà Nguyễn Thị L vắng mặt nên không có bản khai tại hồ sơ.
Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án như thông báo thụ lý vụ án, thông báo về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông H, bà L vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 203 và Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên Tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định pháp luật. Đề nghị áp dụng Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 244 BLTTDS. Đề nghị Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lã Thị Vi H. Buộc ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L phải có trách nhiệm trả cho bà Lã Thị Vi H tổng cộng số tiền là 63.021.000đồng, trong đó: số tiền gốc 60.000.000 đồng và tiền lãi từ ngày 25/5/2023 đến ngày 28/02/2024 là 3.021.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự, uy tín và đi lại, thuê luật sư.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền:
Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp yêu cầu bị đơn trả số tiền bị đơn đã vay. Đây là tranh chấp về hợp đồng vay tài sản. Bị đơn ông Lý Văn H và bà Nguyễn Thị L có địa chỉ tại thôn 3, xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận được pháp luật quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự, uy tín và đi lại, thuê luật sư 50.000.000đồng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần yêu cầu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Việc rút yêu cầu của người đại diện theo ủy quyền là tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên được chấp nhận, Hội đồng xét xử đình chỉ đối với phần yêu cầu này.
Xét bị đơn ông Lý Văn H và bà Nguyễn Thị L đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự [2] Về nội dung:
Vào ngày 18/01/2023, bà Lã Thị Vi H có cho ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L vay số tiền 20.000.000 đồng, thời hạn vay là 01 năm, không thỏa thuận lãi suất. Đến ngày 24/02/2023, tiếp tục cho ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L vay 40.000.000đồng, thời hạn 03 tháng, không thỏa thuận lãi suất. Hội đồng xét xử xét thấy: Việc xác lập hợp đồng vay tài sản (giấy vay tiền) giữa bà Lã Thị Vi H (người cho vay) và vợ chồng ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L (người vay) là người trực tiếp ký tên có nội dung thể hiện số tiền vay trên phù hợp các quy định Bộ luật Dân sự 2015. Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng đều là người có đủ năng lực hành vi dân sự, đủ thẩm quyền ký kết theo quy định. Nội dung của Giấy vay tiền không vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó, hợp đồng vay tiền (giấy vay tiền) giữa nguyên đơn bà Lã Thị Vi H và bị đơn ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L lập ngày 18/01/2023 và ngày 24/02/2023 là hợp pháp nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Quá trình thực hiện hợp đồng ông H, bà L không trả đúng thời hạn theo Giấy vay tiền ngày 24/02/2023, thời hạn vay 3 tháng như đã thỏa thuận nên bà H đã nhiều lần đến nhà yêu cầu vợ chồng ông H, bà L trả số nợ của khoản vay trước đó là ngày 18/01/2023 cùng với khoản vay đến hạn nhưng vợ chồng ông H, bà L trốn tránh.
Tại phiên Tòa, người đại diện theo ủy quyền của bà Lã Thị Vi H yêu cầu ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L phải trả số tiền 40.000.000đồng và tiền lãi từ ngày 25/5/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm 28/02/2024 là 3.021.000đồng. Và yêu cầu ông Lý Văn H và bà Nguyễn Thị L phải trả số tiền vay 20.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi đối với số tiền này.
Đối với số tiền vay 20.000.000đồng nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả và không tính lãi là hoàn toàn phù hợp pháp luật nên chấp nhận.
Về phía bị đơn không thực hiện theo thỏa thuận, trốn tránh không có ý kiến gì phản hồi, từ bỏ nghĩa vụ chứng minh của mình nên có căn cứ để xác định bị đơn đã vi phạm việc thỏa thuận giữa các bên.
Từ những nhận định trên, căn cứ vào Hợp đồng vay tiền giữa bên cho vay bà Lã Thị Vi H và bên vay ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L Hội đồng xét xử xác định ông H, bà L đã nhận của bà H số tiền 02 lần là 60.000.000 đồng. Số tiền đưa cho ông H, bà L là tiền cá nhân của bà H không liên quan đến ai khác. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.
Về lãi suất: Quá trình tham gia tố tụng, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định từ ngày vay tiền đến nay vợ chồng ông H, bà H chưa trả gốc và lãi. Tại Tòa hôm nay ông yêu cầu ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L phải trả số tiền gốc 40.000.000đồng và chỉ yêu cầu tiền lãi từ ngày 25/5/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm 28/02/2024 với mức lãi suất 0,83%/tháng, tính lãi như sau: 09 tháng 03 ngày x 40.000.000đ x 0,83% = 3.021.000 đồng.
Đối với khoản vay 20.000.000đồng ông yêu cầu ông Lý Văn H và bà Nguyễn Thị L phải trả số tiền vay gốc 20.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi đối với số tiền này.
Xét thấy, việc thay đổi mức lãi suất và yêu cầu tính lãi của khoản vay 40.000.000đồng của Nguyên đơn là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lã Thị Vi H là buộc ông ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L phải có trách nhiệm trả số nợ gốc và lãi như đã nêu trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với ý kiến phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc là có cơ sở nên Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận [3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn bà Lã Thị Vi H được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ nên bị đơn ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bà Lã Thị Vi H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 463, Khoản 4 Điều 466, Điều 357, Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 95, Điều 145, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lã Thị Vi H đối với ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Buộc bị đơn ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L phải có trách nhiệm trả cho bà Lã Thị Vi H tổng cộng số tiền 63.021.000đồng (Sáu mươi ba triệu không trăm hai mươi mốt ngàn đồng), cụ thể gốc là 60.000.000đồng, tiền lãi từ ngày 25/5/2023 đến ngày 28/02/2024 là 3.021.000 đồng (lãi của số tiền 40.000.000 đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
2/ Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự, uy tín và đi lại, thuê luật sư.
Người khởi kiện có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án về yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự, uy tín và đi lại, thuê luật sư theo quy định của pháp luật.
3/ Về án phí:
Ông Lý Văn H, bà Nguyễn Thị L phải chịu 3.151.059đồng (ba triệu một trăm năm mươi mốt ngàn không trăm năm mươi chín đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Lã Thị Vi H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà H số tiền tạm ứng án phí 2.200.000 đồng (hai triệu hai trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0019833 ngày 13/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc.
3/ Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/02/2024), đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 15/2024/DS-ST
Số hiệu: | 15/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về