Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 14/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TS, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 14/2023/DS-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TS, tỉnh Phú Thọ xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 23/2022/TLST-DS, ngày 26 tháng 4 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2023/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 8năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 52/2023/QĐST-DS ngày 15 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích H , sinh năm 1973.

ĐKHKTT: K, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ Chỗ ở hiện nay: Khu L Đồng, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Chị Phạm Thị Thùy L, sinh năm 1984.

ĐKHKTT – Chỗ ở hiện nay: SN A, tổ 4, phố Vàng, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ.

(chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, chị L vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơnchị Nguyễn Thị Bích H trình bày:

Do có quen biết nên chị H cho chị Phạm Thị Thùy L vay số tiền 470.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng) làm 05 lần, cụ thể các lần như sau:

Lần 1: Ngày 20/10/2019 vay 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), thời hạn trả nợ 01 tháng.

Lần 2: Ngày 04/12/2019 vay 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng), không thỏa thuận về thời hạn trả nợ.

Lần 3: Ngày 22/01/2020 vay 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng), không có thời hạn trả nợ.

Lần 4: ngày 03/02/2020 vay 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), không có thời hạn trả nợ.

Lần 5: ngày 04/3/2021 vay 250.000.000đ (hai trăm năm mươi triệu đồng), không có thời hạn trả nợ.

Tất cả những lần vay nợ trên chị L đều có viết giấy vay tiền và ký nhận nợ. Hai bên không có thỏa thuận gì về lãi xuất.

Trong thời gian vay chị L không trả cho chị H bất kỳ số tiền nợ gốc nào.Chỉ có 02 lần chị L trả tổng số tiền 8.100.000đ (Tám triệu một trăm nghìn đồng), đây là số tiền chị L trả lãi cho chị do đến hạn trả của khoản nợ 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), chị H yêu cầu trả gốc, chị L không trả nên có trả lãi cho chị H .

Nay chị H yêu cầu chị L phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc là 470.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng) và chị H yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật. Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 28/8/2023 chị H không yêu cầu tính lãi.

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải bị đơn chị Phạm Thị Thùy L trình bày:

Chị L thừa nhận có vay của chị H tổng số tiền là 470.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng) làm 05 lần như chị H trình bày là đúng. Các lần vay chị L đều viết giấy và có ký nhận nợ. Chỉ có 01 lần chị và chị H thống nhất về thời hạn trả nợ, còn lại không thỏa thuận gì và các bên cũng không thỏa thuận gì về lãi xuất. Việc vay nợ là của riêng chị L , không L quan gì đến chồng chị vì chị vay riêng để làm ăn. Tuy nhiên trong quá trình vay nợ chị L đã trả cho chị H làm nhiều lần bằng hình thức chuyển khoản và có lần trả tiền mặt. Các lần chuyển khoản chị sẽ cung cấp giấy tờ chứng minh sau, còn những những lần trả tiền mặt do tin tưởng nhau nên chị không yêu cầu chị H viết giấy hay lấy lại giấy nợ gốc. Nay chị H khởi kiện yêu cầu chị L trả toàn bộ số tiền nợ gốc chị không đồng ý, chị L đồng ý trả số tiền nợ gốc còn lại nhưng chị xin trả dần vì hiện chị đang khó khăn về kinh tế. Số tiền nợ gốc hiện nay chị chưa thống kê được vì chị trả cả tiền mặt và chuyển khoản, chị sẽ chốt lại sau. Về yêu cầu tính lãi của chị H , chị L không đồng ý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích H khởi kiện yêu cầuchị Phạm Thị Thùy L phải trả số tiền đã vay là 470.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng). Các đương sự tranh chấp với nhau về việc vay tài sản, xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Bị đơn là chị Phạm Thị Thùy L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại SN 16, tổ 4 Phố Vàng, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ. Do vậy Tòa án nhân dân huyện TS, tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết là phù hợp với khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Nguyễn Thị Bích H có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 28/8/2023. Bị đơn - chị Phạm Thị Thùy L được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định xét xử vụ án và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H , chị L là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích H thấy rằng: chị H cung cấp tài liệu chứng cứ gồm 05(năm) giấy vay tiền các ngày 20/10/2019 vay 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), thời hạn trả nợ 01 tháng; ngày 04/12/2019 vay 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng), không thỏa thuận về thời hạn trả nợ; ngày 22/01/2020 vay 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng), không có thời hạn trả nợ; ngày 03/2/2020 vay 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), không có thời hạn trả nợ và ngày 04/3/2021 vay 250.000.000đ (hai trăm năm mươi triệu đồng), không có thời hạn trả nợ(bản gốc). Tổng số tiền của 05 lần vay là 470.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng), các bên không có thỏa thuận gì về lãi xuất. Đây là hợp đồng vay tài sản (tiền) có thời hạn và không có lãi suất.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời khai của các đương sự tại phiên tòa Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc vay nợ giữa chị H và chị L là có thật, thể hiện ở nội dung các giấy vay tiền bản gốc chị H đã nộp cho Tòa án, theo đó chị H là người cho vay tiền, chị L là người vay tiền, tại giấy vay tiền chị L đã trực tiếp viết giấy vay tiền, có ký nhận đầy đủ. chị H cho rằng từ khi vay đến nay chị L chưa trả cho chị H khoản tiền nào. Nay chị H khẳng định chị L còn nợ chị H tổng số tiền vay của 05 lần là 470.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng). Phía chị L xác nhận có vay của chị H 05 lần và có viết giấy vay tiền, ký nhận với tổng số tiền vay là 470.000.000đ như chị H trình bày là đúng, phía chị L cho rằng đã trả cho chị H làm nhiều lần, bằng hình thức chuyển khoản và có lần trả tiền mặt. Trong quá trình làm việc tại Tòa án chị L trình bày các lần chuyển khoản chị sẽ cung cấp giấy tờ chứng minh sau, còn những lần trả tiền mặt do tin tưởng nhau nên chị không yêu cầu chị H viết giấy hay lấy lại giấy nợ gốc. Tòa án đã ra Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ số: 27/2023/QĐ-CCTLCC ngày 17/7/2023 và đã giao cho chị L nhưng từ đó đến nay chị L không cung cấp được tài liệu gì cho Tòa án. Ngày 14/8/2023, chị L có đơn xin hoãn phiên tòa ngày 15/8/2023 để cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh đã trả nợ cho chị H , Tòa án đã hoãn phiên tòa xét xử ngày 15/8/2023, tuy nhiên tại phiên tòa ngày hôm nay chị L vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ gì cho Tòa án.

HĐXX xét thấy việc chị H và chị L thực hiện giao dịch hợp đồng vay tài sản đều hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật, không bị ai ép buộc, hai bên đềucó đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự, tuy nhiên chị L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay, không thực hiện đúng theo như hợp đồng vay tài sản giữa hai bên đã ký kết và thỏa thuận. Do vậy yêu cầu khởi kiện của chị H là có căn cứ cần được chấp nhận, từ đó cần buộc chị L phải có trách nhiệm trả cho chị H tổng số tiền gốc đã vaylà 470.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng) là có căn cứ theo quy định tại điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về lãi suất: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H yêu cầu chị L phải trả lãi theo quy định của pháp luật đối với các khoản vay trong đó có khoản vay ngày 20/10/2019 vay 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), thời hạn trả nợ 01 tháng. chị H xác nhận có 02 lần chị L chuyển khoản cho chị với tổng số tiền 8.100.000đ (Tám triệu một trăm nghìn đồng). Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 28/8/2023 chị H xác nhận đã nhận tiền lãi là 8.100.000đ cho khoản vay 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), thời hạn trả nợ 01 thángngày 20/10/2019, chị không có ý kiến gì khác. Nay chị H xin rút yêu cầu tính lãi còn lại đối với tất cả các khoản tiền đã cho chị L vay. Phía chị L không có mặt tại phiên tòa nên không cung cấp tài liệu chứng cứ cũng như không có quan điểm gì.

HĐXX nhận thấy: Do chị H tự nguyện xin rút yêu cầu tính lãi đối với tất cả các khoản tiền đã cho chị L vay nên HĐXX không xem xét.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[4] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 469, Điều 470 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 147,điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;. Khoản 2 điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bích H về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với chị Phạm Thị Thùy L.

Về tiền nợ gốc:Buộc chị Phạm Thị Thùy L phải có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Bích H tổng số tiền nợ đã vay là 470.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng) theo giấy vay tiền các ngày 20/10/2019 vay 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng); ngày 04/12/2019 vay 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng); ngày 22/01/2020 vay 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng); ngày 03/2/2020 vay 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) và ngày 04/3/2021 vay 250.000.000đ (hai trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về tiền lãi: Xác nhận chị L đã trả cho chị H số tiền lãi là 8.100.000đ (Tám triệu một trăm nghìn đồng). Nay chị H không yêu cầu tính lãi còn lại nên HĐXX không xem xét.

2. Về án phí:

Buộc chị Phạm Thị Thùy L phải nộp 22.800.000đ (Hai mươi hai triệu tám trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Bích H tiền tạm ứng án phí dân sự là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0007147 ngày 26/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TS.

3.Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và Điều 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo:Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 14/2023/DS-ST

Số hiệu:14/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về