Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 123/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 123/2023/DS-ST NGÀY 05/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 97/2023/TLST-DS ngày 10 tháng 4 năm 2023, về việc “tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2023/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 5 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 398 / 2 0 2 3 /QĐST-DS ngày 13 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Hoàng Hà Q, sinh năm 1968; địa chỉ: số 134A/4, tổ 1A, hẻm N, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; có mặt.

2. Bị đơn:

2.1 Ông Phạm Văn G, sinh năm 1964; địa chỉ: số 31/3, ấpT, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt;

2.2 Ông Phạm Minh N, sinh năm 1988; địa chỉ: số 31/3, ấpT, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn ông Hoàng Hà Q trình bày: Vào ngày 20/12/2022 ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N ký biên nhận vay của ông Q số tiền là: 205.000.000 đồng, lãi suất 2%/01 tháng, hẹn 03 tháng sau sẽ hoàn trả lại đủ vốn và lãi, nhưng từ khi vay đến nay thời gian đã quá 03 tháng rồi, ông Q đã rất nhiều lần liên lạc và tìm kiếm ông G và ông N để nói chuyện yêu cầu ông G và ông N trả tiền cho ông Q, nhưng ông G và ông N không thực hiện như cam kết, mà tránh né, rồi cứ hứa hẹn hoài. Vậy nay ông Q làm đơn khởi kiện này yêu cầu ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N phải có trách nhiệm liên đới trả nợ cho ông Q số tiền là: 205.000.000đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật, kể từ ngày 20/12/2022 cho đến khi xét xử vụ án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Phạm Minh N trình bày ý kiến xác định là ông nhận được thông báo của Tòa án về việc ông Hoàng Hà Q khởi kiện đòi số tiền vay theo biên nhận ngày 20/12/2022. Ông N xác nhận ông N và ba ông N là ông Phạm Văn G có vay số tiền là 205.000.000đồng theo biên nhận ngày 20/12/2022 mà ông Hoàng Hà Q kèm theo đơn kiện. Hiện nay, ông N có làm vườn xoài nhưng giá quá thấp và không có người mua, gia đình ông N đang gặp khó khăn về kinh tế, mẹ ông N bệnh tiểu đường, thận hư, anh ông N bị bệnh tâm thần phải chăm sóc nên không thực hiện trả được tiền theo như thỏa thuận trong biên nhận ngày 20/12/2022. ông N đề nghị phía nguyên đơn cho thêm thời gian 45 ngày nữa, lúc đó tiền lương cán bộ tăng thêm, ông N sẽ thu xếp để trả cho nguyên đơn mỗi tháng là 3.000.000đồng.

Bị đơn ông Phạm Văn G không gửi ý kiến cho Tòa án.

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Hoàng Hà Q giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu tính lãi suất theo quy định pháp luật. Ông Q xác định trước khi khởi kiện vụ án tại Tòa án, ông Q có nhận của ông N số tiền 1.500.000đồng làm tiền xăng xe và chi phí đi lại để rút đơn khởi kiện mà trước đây ông Q khởi kiện và rút đơn, Tòa án đã đình chỉ giải quyết, do ông N không thực hiện đúng theo thỏa thuận nên ông Q khởi kiện lại, số tiền 1.500.000đồng làm chi phí không phải trong vụ án này.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xứ căn cứ các Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự: công nhận hợp đồng vay tài sản giữa ông Hoàng Hà Q với ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Hà Q, buộc ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N, trả cho ông Hoàng Hà Q số tiền 205.000.000đồng và tính lãi suất 20%/năm, kể từ ngày vay đến ngày xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông Hoàng Hà Q khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng dân sự với ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N. Ông G, ông N có nơi cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới. Căn cứ các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thụ lý giải quyết là đúng theo quy định.

[2] Ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Ông Hoàng Hà Q khởi kiện yêu cầu ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N trả tiền nợ vay 205.000.000đồng, căn cứ khởi kiện là Biên nhận ngày 20/12/2022, trong quá trình giải quyết vụ án ông N có ý kiến xác nhận xác nhận ông N và ba ông N là ông Phạm Văn G có vay số tiền là 205.000.000đồng theo biên nhận ngày 20/12/2022 mà ông Hoàng Hà Q kèm theo đơn kiện. Theo văn bản và lời thừa nhận của bị đơn đã xác định được các bên đã tự nguyện giao kết, nội dung thỏa thuận phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự cho nên phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên, do ông G, ông N vi phạm nghĩa vụ trả tiền cho nên việc khởi kiện của ông Q đòi ông G, ông N trả tiền vay là có căn cứ nên được chấp nhận.

[4] Ông Phạm Minh N trình bày ý kiến xin được trả dần mỗi tháng là 3.000.000đồng, nguyên đơn ông Hoàng Hà Q không đồng ý và Tòa án không có căn cứ cho trả dần cho nên Tòa án chỉ buộc bị đơn có nghĩa vụ trả tiền.

[5] Đối với việc ông Hoàng Hà Q xác định trước khi khởi kiện vụ án tại Tòa án, ông Q có nhận của ông N số tiền 1.500.000đồng làm tiền xăng xe và chi phí đi lại để rút đơn khởi kiện mà trước đây ông Q khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không đề cập đến nên không xem xét trong vụ án này.

[6] Ông Hoàng Hà Q khởi kiện yêu cầu ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N trả lãi suất theo quy định của pháp luật, kể từ ngày 20/12/2022 cho đến khi xét xử vụ án. Thấy rằng, theo Biên nhận ngày 20/12/2022, các bên giao dịch có thỏa thuận việc trả lãi 2%/ 1 tháng. Xét thấy, việc thỏa thuận trả lãi của các đương sự là cao hơn quy định của pháp luật, nguyên đơn xác định lãi suất theo quy định của pháp luật, căn cứ quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân tối cao, tiền lãi được tính như sau: Từ ngày 20/12/2022 đến ngày 05/7/2023 là 197 ngày, tiền lãi được tính là:

205.000.000đồng x (20%/năm) (20/100/365) x 197 ngày = 22.129.000đồng.

[7] Ông Hoàng Hà Q không phải chịu án phí; ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N phải chịu án phí đối với phần buộc có nghĩa vụ theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào, 

- Các Điều 26, 35, 39, 227, 228 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 131, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Hà Q và xử như sau:

1) Buộc ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N có nghĩa vụ trả cho ông Hoàng Hà Q số nợ tiền vay 205.000.000đồng (Bằng chữ: hai trăm lẽ năm triệu đồng) và tiền lãi 22.129.000đồng (Bằng chữ: Hai mươi hai triệu một trăm hai mươi chín nghìn đồng).

2) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3) Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Hoàng Hà Q không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, ông Hoàng Hà Q được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 5.125.000đồng (Bằng chữ: Năm triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai số 0013447 ngày 07/4/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Ông Phạm Văn G và ông Phạm Minh N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 11.356.000đồng (Bằng chữ: mười một triệu ba trăm năm mươi sáu nghìn đồng).

4) Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt thì thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 123/2023/DS-ST

Số hiệu:123/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:05/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về