TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 12/2024/DS-ST NGÀY 23/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện HH xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 186/2023/TLST-DS ngày 14 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2024/QĐXXST-DS ngày 02 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/QĐST-DS, ngày 12 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Vũ Văn H, sinh năm 1963; địa chỉ: Xóm X, xã H.Đ, huyện HH, tỉnh Nam Định, “vắng mặt”;
Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Bà Phạm Thị P, sinh năm 1965;
địa chỉ: Xóm X, xã H.Đ, huyện HH, tỉnh Nam Định, “có đơn xin vắng mặt”.
- Bị đơn: Bà Đinh Thị H, sinh năm 1971; địa chỉ: Xóm Tây Cát, xã H.Đ, huyện HH, tỉnh Nam Định, “vắng mặt không có lý do”;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị P, sinh năm 1965; địa chỉ: Xóm X, xã H.Đ, huyện HH, tỉnh Nam Định, “có đơn xin vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 07 tháng 12 năm 2023, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Vũ Văn H và người đại diện theo ủy quyền của ông H đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị P trình bày:
Vợ chồng ông Vũ Văn H, bà Phạm Thị P sinh sống cùng xóm với bà Đinh Thị H. Năm 2016, 2017 vợ chồng ông H đã nhiều lần cho bà H vay tổng số tiền là 85.000.000đồng, cụ thể: Ngày 26/6/2016 cho vay 20.000.000đồng; ngày 03/4/2017 cho vay 20.000.000đồng; ngày 03/6/2017 cho vay 20.000.000đồng;
ngày 16/8/2017 cho vay 15.000.000đồng; ngày 20/4/2017 cho vay 10.000.000đồng. Mục đích bà H vay tiền để chi tiêu, hai bên thỏa thuận thời hạn vay từ 02 đến 03 tháng, lãi suất theo thỏa thuận. Bà H hỏi và trực tiếp nhận tiền vay của vợ chồng ông H, nhưng khi viết giấy nhận nợ bà H viết và ký tên H3 là chồng bà H và đưa cho bà P giữ giấy (trong giấy vay nợ bà H không viết thời hạn vay và lãi suất), ông H3 chồng bà H không liên quan đến việc vay mượn tiền. Đến hạn vợ chồng ông H nhiều lần yêu cầu bà H trả nợ nhưng bà H đều khất, nể tình hàng xóm nên vợ chồng ông H cũng đồng ý. Năm 2021 bà H tiếp tục vay của vợ chồng ông H 02 chỉ vàng 9999, không viết giấy, không có lãi, không thời hạn vay. Tháng 02 năm 2021 bà H có nhờ bà P đứng tên tham gia 01 phường tiền (bà H không đứng tên nhưng nộp tiền phường), phường có 20 chơi, mỗi tháng góp 01 lần, mỗi lần góp 3.000.000đồng, người đã rút thì phải góp cả gốc và lãi là 3.400.000đồng/tháng. Ngày 25/3/2021, bà H rút thứ 2 được 57.000.000đồng (trừ suất của bà H). Bà P và bà H đã thống nhất đối trừ 50.000.000đồng vào tiền vay nợ, còn lại 7.000.000đồng bà P giao cho bà H. Bà H còn nợ lại là 35.000.000đồng và 02 chỉ vàng 9999. Bà H đóng hội đến thứ 15, từ người thứ 16 trở đi không đóng nữa nên vợ chồng ông H phải đóng cho những người rút sau với tổng số tiền là 17.000.000đồng. Như vậy bà H còn nợ của vợ chồng ông H, bà P tổng số tiền 52.000.000đồng và 02 chỉ vàng 9999. Nay ông H yêu cầu Tòa án buộc bà Đinh Thị H phải trả cho vợ chồng ông số tiền 52.000.000đồng vàng 02 chỉ 9999, không yêu cầu trả lãi.
Tại bản tự khai ngày 15/12/2023, bị đơn bà Đinh Thị H trình bày:
Bà H thừa nhận có vay và còn nợ vợ chồng ông Vũ Văn H, bà Phạm Thị P số vàng là 02 chỉ vàng 9999 và có tham gia phường tiền như ông H, bà P trình bày là đúng. Hiện nay bà H chỉ đồng ý còn nợ vợ chồng ông H bà P 05 suất phường (mỗi suất 3.400.000đồng), tương đương 17.000.000đồng, ngoài ra không còn nợ vợ chồng ông H, bà P khoản tiền nào nữa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Vũ Văn H đã ủy quyền cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thị P tham gia tố tụng, bà P có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn bà Đinh Thị H vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp và lời khai của các đương sự có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy:
[2.1] Theo lời trình bày của ông Vũ Văn H và bà Phạm Thị P: Năm 2016 và năm 2017 vợ chồng ông H, bà P có 05 lần cho bà Đinh Thị H vay tổng số tiền 85.000.000đồng, mục đích bà H vay để chi tiêu, cụ thể: Ngày 26/6/2016 vay 20.000.000đồng; ngày 03/4/2017 vay 20.000.000đồng; ngày 20/4/2017 vay 10.000.000đồng; ngày 03/6/2017 vay 20.000.000đồng; ngày 16/8/2017 vay 15.000.000đồng với thời hạn vay từ 2 đến 3 tháng. Các lần vay tiền bà H đều tự ghi ngày tháng năm, số tiền vay, ký tên là H3 (tên chồng bà H) vào quyển sổ của bà P (vợ ông H) và bà P giữ sổ. Năm 2021 bà H tiếp tục vay của vợ chồng ông H 02 chỉ vàng 9999, không viết giấy biên nhận nợ, không có lãi, không thời hạn vay. Đến hạn trả nợ tiền bà H không trả. Ngày 25/3/2021 bà H rút thứ 2 hội tiền có 20 người tham gia được số tiền 57.000.000đồng (trừ suất của bà H), hai bên đã thống nhất đối trừ số tiền 50.000.000đồng vào tiền bà H vay nợ của vợ chồng ông H, còn lại 7.000.000đồng bà P giao cho bà H, bà H còn nợ lại là 35.000.000đồng. Bà H đóng hội đến suất thứ 15, từ suất 16 trở đi bà H không đóng nữa nên bà P phải đóng cho những người rút sau với tổng số tiền là 4 x 3.400.000đồng = 17.000.000đồng. Như vậy bà H còn nợ của vợ chồng ông H, bà P tổng số tiền 52.000.000đồng và 02 chỉ vàng 9999.
[2.2] Theo lời trình bày của bà Đinh Thị H: Bà H thừa nhận hiện còn nợ vợ chồng ông Vũ Văn H, bà Phạm Thị P số vàng là 02 chỉ vàng 9999 và 05 suất phường tương đương 17.000.000đồng, không thừa nhận còn nợ vợ chồng ông H, bà P số tiền 35.000.000đồng.
[2.3] Căn cứ vào những tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp các giấy ghi nợ có nội dung: “ngày 26/6/2016 thím H3 đội 8 xóm Tây Cát, em lấy của anh chị Huấn 20.000.000đồng”; “thím H3 mượn của chị Huấn 3/4/2017 20.000.000đồng”; “3/6/2017 thím H3 mượn của chị Huấn hai mươi triệu chẵn”; “em H3 2 chỉ vàng”; “20/4/2017 e H3 mượn chị Huấn mười triệu chẵn”; “16/8/2017 thím H3 mượn 15.000.000đồng chẵn, mười năm triệu chẵn của chị Huấn”, sau mỗi nội dung: ngày, số tiền vay đều có chữ ký tên H3. Giấy cấp hội có nội dung “cấp hội cho E H3 25/3/2021 20 suất x 3000 = 60.000.000, 1 suất lãi x 400 = 400, nhà 1 suất 3000, 57.000, em H3 trả 50.000.000đ - H3 - em đã nhận đủ, còn nợ 5 tháng = 17.000.000”. Như vậy lời trình bày của bà H phù hợp với lời trình bày của ông H, bà P và những tài liệu chứng cứ về việc bà H còn nợ vợ chồng ông H, bà P 05 suất (tháng) tiền phường tương đương 17.000.000đồng và 02 chỉ vàng 9999.
[2.4] Đối với số tiền 35.000.000đồng ông H yêu cầu bà H phải trả, bà H không thừa nhận khoản nợ này. Hội đồng xét xử thấy: Các giấy vay tiền không ghi tên Hát mà ghi tên H3 hoặc “thím H3”, tại giấy cấp hội ngày 25/3/2021 có chữ ký tên H3 và bà H đã thừa nhận nội dung giấy cấp hội là đúng nên có căn cứ khẳng định bà H ký giấy lấy tên H3 là tên của chồng bà H. Tòa án đã nhiều lần yêu cầu bà H trình bày rõ ý kiến của mình về việc ông H yêu cầu bà phải trả số tiền 35.000.000đồng tiền vay còn nợ lại nhưng bà H đều từ chối không trình bày, trong khi đó ông H đưa ra những tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình; do đó có căn cứ khẳng định bà H có vay của vợ chồng ông H, bà P tổng số tiền 85.000.000đồng là đúng. Ông H, bà P khẳng định bà H đã trả 50.000.000đồng do trừ tiền hội, còn nợ lại 35.000.000đồng. Mặc dù hai bên không có giấy chốt nợ nhưng nội dung ghi trong giấy cấp hội ngày 25/3/2021 đã thể hiện rõ việc bà H đã trả số tiền 50.000.000đồng. Xét lời khai của nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở khẳng định việc bà Đinh Thị H có vay tiền và còn nợ vợ chồng ông Vũ Văn H bà Phạm Thị P số tiền 35.000.000đồng là đúng.
[3] Từ những phân tích đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H đối với bà H. Buộc bà H phải có nghĩa vụ trả vợ chồng ông H, bà P số tiền 52.000.000đồng (trong đó:
35.000.000đồng tiền vay nợ, 17.000.000đồng tiền hội) và 02 chỉ vàng 9999 (giá váng 6.330.000đồng/chỉ) tương đương số tiền 12.660.000đồng theo quy định tại các Điều 357, 466, 468 của Bộ luật Dân sự. Tổng số tiền bà H phải trả vợ chồng ông H, bà P là 64.660.000đ (sáu mươi tư triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn).
[4] Do nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải trả tiền lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn là bà Đinh Thị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào các Điều 357, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự.
1.1. Xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn H đối với bà Đinh Thị H.
1.2. Buộc bà Đinh Thị H có nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng ông Vũ Văn H, bà Phạm Thị P số tiền 64.660.000đ (sáu mươi tư triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc:
Bà Đinh Thị H phải nộp số tiền 3.233.000đ (ba triệu hai trăm ba mươi ba nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Vũ Văn H được miễn nộp tạm ứng án phí do là người cao tuổi.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông Vũ Văn H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Phạm Thị P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn bà Đinh Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 12/2024/DS-ST
Số hiệu: | 12/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về