Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 114/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 114/2023/DS-PT NGÀY 15/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 46/2023/TLPT-DS ngày 28 tháng 6 năm 2023 về tranh chấp: “Hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 10/2023/DS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 178/2023/QĐ-PT ngày 08 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963; Địa chỉ: Tổ 3 thị trấn N, huyện N, tỉnh N. Có mặt.

- Bị đơn: Bà Trần Thị Thanh T1, sinh năm 1968;

Địa chỉ: Số 157 đường H, phường N, thành phố N, tỉnh N. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Văn Q, sinh năm 1963; Địa chỉ: Số 157 đường H, phường N, thành phố N, tỉnh N. Vắng mặt.

2. Ông Vũ Đức M, sinh năm 1963; Địa chỉ: Tổ 3 thị trấn N, huyện N, tỉnh N. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của ông M: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963; Địa chỉ: Tổ 3 thị trấn N, huyện N, tỉnh N. Có mặt.

(Theo giấy ủy quyền lập ngày 06-10-2022)

- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị T (là nguyên đơn)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 01-10-2022; Bản tự khai cũng như trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T trình bày: Giữa bà và bà Trần Thị Thanh T1 có quan hệ quen biết từ trước. Ngày 25-5- 2019 bà đã cho bà T1 vay số tiền 700.000.000 (Bảy trăm triệu) đồng để đầu tư xây dựng khu sinh thái Q T1. Nguồn gốc số tiền này là tài sản chung của bà và ông Vũ Đức M. Bà đã giao số tiền trên cho bà T1 tại số nhà 157 đường H, phường N, thành phố N làm 02 lần: Lần 1 là 600.000.000 đồng, lần 02 là 100.000.000 đồng. Khi bà giao tiền thì bà T1 đã tự viết chung vào 01 giấy biên nhận đề ngày 25-5-2019. Về lãi suất: hai bên thỏa thuận miệng là 20%/năm sau đó thỏa thuận lại lãi suất là 1,5%/tháng. Tuy không thỏa thuận về thời hạn vay nhưng trong trường hợp cần tiền thì bà báo trước cho bà T1 1 tuần để bà T1 thanh toán gốc và lãi cho bà. Bà T1 đã trả lãi cho bà theo thỏa thuận từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 11 năm 2019 (06 tháng) là 63.000.000 (Sáu mươi ba triệu) đồng. Khi nhận tiền lãi thì bà đã ký vào sổ tay của bà T1. Từ tháng 12 năm 2019 cho đến nay bà T1 không trả tiền gốc và lãi cho bà nữa. Bà đã nhiều lần liên lạc với bà T1 để yêu cầu thanh toán tiền gốc và lãi nhưng không liên lạc được. Bà đã tố cáo hành vi của bà T1 tới cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định. Tuy nhiên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự do sự việc không có dấu hiệu tội phạm. Nay bà khởi kiện đề nghị Tòa án buộc bà Trần Thị Thanh T1 và ông Trần Văn Q phải trả cho bà và ông Vũ Đức M tiền nợ gốc là 700.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật.

* Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng đối với bà Trần Thị Thanh T1 và ông Trần Văn Q; Tiến hành thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đối với bà T1 và ông Q nhưng bà T1, ông Q không đến làm việc nên không có lời khai tại tòa án.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Vũ Đức M trình bày: Ông xác nhận nguồn gốc số tiền 700.000.000 đồng mà bà T cho bà T1 vay là tiền của vợ chồng ông. Vợ chồng ông đã bàn bạc, thống nhất cho bà T1 vay số tiền trên. Tuy nhiên, việc giao tiền và nhận lại là do bà T thực hiện. Ông thống nhất quan điểm với bà T, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định buộc bà Trần Thị Thanh T1 phải trả tiền gốc đã vay là 700.000.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật.

* Tại biên bản xác minh ngày 21-10-2022, Công an phường Ngô Quyền cung cấp: Vợ chồng ông Trần Văn Q, bà Trần Thị Thanh T1 sinh sống tại số nhà 157 đường H, phường N, thành phố N. Trước năm 2020 ông Q, bà T1 có mở hiệu cầm đồ Q Tuấn tại địa chỉ trên để kinh doanh cầm đồ. Tháng 01 năm 2020 bà T1, ông Q đã đi nơi khác sinh sống. Trước khi đi ông Q, bà T1 không báo tạm vắng nên chính quyền địa phương không biết địa chỉ hiện tại của ông Q, bà T1. Căn nhà 157 đường H, phường N không còn ai thân thích của ông Q, bà T1 sống.

* Tại Công văn số 25087/QLXNC-P5 ngày 22-11-2022, Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an trả lời không có thông tin cấp hộ chiếu, xuất nhập cảnh tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh của Trần Thị Thanh T1 và Trần Văn Q.

* Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số: 10/2023/DS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân dân Thành phố Nam Định đã quyết định:

- Căn cứ Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 469 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào Điều 6, Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01- 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T.

Buộc bà Trần Thị Thanh T1 phải trả cho bà Nguyễn Thị T và ông Vũ Đức M số tiền nợ gốc và lãi tính đến hết ngày 12-5-2023 là 942.235.159 đồng (Chín trăm bốn mươi hai triệu hai trăm ba mươi lăm nghìn một trăm năm mươi chín đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 13-5-2023) cho đến khi thi hành án xong, bà Trần Thị Thanh T1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.

* Ngày 02 tháng 6 năm 2023, bà Nguyễn Thị T có kháng cáo với nội dung: Ông Trần Văn Q và bà Trần Thị Thanh T1 hiện vẫn còn hôn nhân; Về lãi suất ông Q và bà T1 đã thỏa thuận với bà là 20%/năm và trả lãi hàng tháng cho đến khi bỏ đi. Nay bà yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Trần Văn Q và bà Trần Thị Thanh T1 phải trả cho bà cả gốc và lãi theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên toà:

- Bà Nguyễn Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và giữ nguyên nội dung kháng cáo.

- Đại diện VKS trình bày quan điểm: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm và xem xét đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị T, VKSND tỉnh Nam Định thấy rằng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự; Các đương sự đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng Tòa án đã tiến hành niêm yết; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng có đại diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa; Tòa án vẫn tiến hành xét xử là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 10/2023/DS-ST ngày 12-5-2023 của Toà án nhân dân Thành phố Nam Định; Về án phí đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 26 tháng 5 năm 2023, bà Nguyễn Thị T nộp cho Tòa án đơn kháng; tuy nhiên, ngày 26-5-2023, Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định đã ban hành “Thông báo về việc yêu cầu làm lại, sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo” và ngày 02-6-2023, bà Nguyễn Thị T đã nộp lại đơn kháng cáo. Xét đơn kháng cáo được làm đúng theo quy định tại Điều 272 của Bộ luật tố tụng dân sự; do vậy, kháng cáo của bà T được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Cấp phúc thẩm đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn là bà Trần Thị Thanh T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn Q vẫn vắng mặt không có lý do; ông Vũ Đức M vắng mặt nhưng đã có văn bản ủy quyền cho bà Nguyễn Thị T. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử nhận định:

2.1. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc bà Trần Thị Thanh T1 và ông Trần Văn Q phải trả cho bà và ông Vũ Đức M tiền nợ gốc là 700.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật; đồng thời nguyên đơn nộp cho Tòa án “Giấy biên nhận”.

Xét nội dung “Giấy biên nhận” thể hiện: “Tôi là Trần Thị Thanh T1 Đ/c:

157 Hàng Thao có vay chị T Đ/c: thôn Nhất chợ chùa số tiền là: 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng chẵn) và thể hiện ngày lập giấy là ngày 25/5/2019 DL; người vay ký, ghi tên Trần Thị Thanh T1. Phía cuối trang giấy thể hiện “Tổng = 700.000.000 (Bảy trăm triệu) – cùng ngày)” Xét thấy, bà Nguyễn Thị T khởi kiện và cho rằng bà đã cho bà T1 vay số tiền 700.000.000 (Bảy trăm triệu) đồng để đầu tư xây dựng khu sinh thái Quang Tâm. Nguồn gốc số tiền cho vay này là tài sản chung của bà và ông Vũ Đức M. Bà đã giao số tiền trên cho bà T1 tại số nhà 157 đường H, phường N, thành phố N làm 02 lần: Lần 1 là 600.000.000 đồng, lần 02 vào là 100.000.000 đồng. Bà T cho rằng, khi bà T giao tiền thì bà T1 đã tự viết giấy biên nhận.

Theo Bản kết luận giám định số 509/KLGĐ-PC09 ngày 18-6-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Chữ ký, chữ viết Trần Thị Thanh T1 trên giấy biên nhận đề ngày 25-5-2019 so với những mẫu chữ ký, viết tên trong Hợp đồng ủy quyền giữa bà Trần Thị Thanh T1 và ông Trần Văn Q với ông Trần Viết Nhẫn do cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định thu thập là do cùng một người ký, viết ra.

Như vậy, bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu bà T1 trả cho bà số tiền đã cho vay là 700.000.000 (Bảy trăm triệu) đồng là có căn cứ. Tuy nhiên, theo nội dung của “Giấy biên nhận” được lập thể hiện là Trần Thị Thanh T1 có vay của chị T, việc giao nhận tiền và ký nhận thì chỉ có bà Trần Thị Thanh T1 viết và ký giấy biên nhận. Không có căn cứ vững chắc việc ông Trần Văn Q cùng tham gia nhận tiền. Nội dung của “Giấy biên nhận” cũng không thể hiện mục đích vay để làm gì và cũng không có căn cứ việc bà T1 vay tiền để chi tiêu chung trong gia đình. Do vậy, cấp sơ thẩm đã xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T, buộc bà Trần Thị Thanh T1 phải trả cho bà Nguyễn Thị T và ông Vũ Đức M số tiền đã vay là hoàn toàn có căn cứ pháp lý; không có căn cứ buộc ông Trần Văn Q phải có trách nhiệm trả khoản nợ vay cho bà T cùng với bà T1 theo như kháng cáo của bà T.

2.2. Về lãi suất: “Giấy biên nhận” được lập và do chính bà Trần Thị Thanh T1 viết và ký nhận nhưng không thể hiện về lãi suất khi cho vay. Bà T cho rằng, hai bên thỏa thuận miệng là 20%/năm sau đó thỏa thuận lại lãi suất là 1,5%/tháng. Bà T xác nhận bà T1 đã trả lãi cho bà từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 11 năm 2019 (06 tháng) là 63.000.000 (Sáu mươi ba triệu) đồng; khi nhận tiền lãi thì bà đã ký vào sổ tay của bà T1.

Do bà Trần Thị Thanh T1, ông Trần Văn Q không có mặt tại địa phương, không rõ đi đâu, không lấy được lời khai của bà T1, ông Q nên không có căn cứ xác định được rõ lãi suất. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự và điểm a khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết 01/2019/NQ- HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; buộc bà Trần Thị Thanh T1 còn phải có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị T tổng tiền lãi là 242.235.159 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Do ông M và bà T xác định đây là tài sản chung của vợ chồng nên cấp sơ thẩm đã buộc bà Trần Thị Thanh T1 phải có nghĩa vụ trả cho bà T và ông M số tiền nợ gốc và lãi tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm (12-5-2023) tổng cộng là (700.000.000 đồng + 242.235.159 đồng) = 942.235.159 đồng cũng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Tại cấp phúc thẩm, các đương sự cũng không cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ nào khác nữa để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do vậy, kháng cáo của bà Nguyễn Thị T là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên đương sự có kháng cáo phải nộp án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.

Bản án dân sự sơ thẩm số: 10/2023/DS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân dân Thành phố Nam Định có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đồng. Đối trừ số tiền 300.000 đồng do bà Nguyễn Thị T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0000133 ngày 05-6-2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Nam Định;

bà T đã nộp xong tiền án phí dân sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 114/2023/DS-PT

Số hiệu:114/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về